Diễn biến xâm nhập mặn trên các sông chính chảy qua địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 2.29 MB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá diễn biến xâm nhập mặn (XNM) trên các sông chính chảy qua khu vực thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) như sông Nhà Bè, Sài Gòn, Đồng Nai trong 10 năm gần đây (2006 - 2015), bao gồm diễn biến độ mặn cao nhất, thấp nhất và trung bình; biên độ mặn mùa khô và theo tháng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Diễn biến xâm nhập mặn trên các sông chính chảy qua địa bàn thành phố Hồ Chí Minh Hóa học & Kỹ thuật môi trường DIỄN BIẾN XÂM NHẬP MẶN TRÊN CÁC SÔNG CHÍNH CHẢY QUA ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Lê Ngọc Tuấn 1, Nguyễn Lê Phương Nguyệt 2, Huỳnh Anh Kiệt 3* Tóm tắt: Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá diễn biến xâm nhập mặn (XNM) trên các sông chính chảy qua khu vực thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) như sông Nhà Bè, Sài Gòn, Đồng Nai trong 10 năm gần đây (2006 - 2015), bao gồm diễn biến độ mặn cao nhất, thấp nhất và trung bình; biên độ mặn mùa khô và theo tháng. Kết quả cho thấy, độ mặn trên các sông gia tăng, XNM có xu hướng ngày càng lấn sâu vào nội địa, đỉnh mặn thường xuất hiện vào tháng 2 đến tháng 4. Sông Nhà Bè chịu ảnh hưởng của XNM lớn nhất (dao động từ 2,49 – 13,1‰ qua các năm), tiếp đó là các sông Đồng Nai (0,2 – 9,3‰), sông Sài Gòn (0,2 – 6,2‰), có nguy cơ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, sinh hoạt cũng như cấp nước tại huyện Bình Chánh, Nhà Bè và Cần Giờ. Do đó, đòi hỏi nghiên cứu, đánh giá tính dễ bị tổn thương do XNM đến các ngành, lĩnh vực, là cơ sở hoạch định các giải pháp ứng phó tương thích, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Từ khóa: Khả năng thích ứng, Biến đổi khí hậu, Cộng đồng. 1. MỞ ĐẦU Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH), nhiều nơi trên thế giới đang đối mặt với nhiều thiên tai như bão lớn, nắng nóng, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn (XNM)… gây thiệt hại nặng nề, đặc biệt tại Việt Nam [1]. BĐKH và nước biển dâng (NBD) gây sức ép lên môi trường nói chung và nguồn nước nói riêng, ảnh hưởng lớn đến dòng chảy trên các sông bởi sự thay đổi nhiệt độ, lượng mưa [2-3], mực nước biển [4]…, gián tiếp ảnh hưởng đến quá trình XNM, đặc biệt là ở những vùng cửa sông và ven biển. Việc giảm lượng nước ngọt thượng nguồn do gia tăng nhiệt độ và giảm lượng mưa vào mùa kiệt, kết hợp với dòng chảy triều tăng do mực NBD làm mặn ngày càng xâm nhập sâu hơn vào nội đồng [5], ảnh hưởng đến các hoạt động dân sinh kinh tế như nông nghiệp [6], thủy sản [7], và hệ sinh thái tự nhiên…, quan ngại nhất là nguồn nước sinh hoạt ở hạ lưu sông [8]. Nói cách khác, XNM trong bối cảnh BĐKH là một trong những thách thức lớn, cần nghiên cứu, đánh giá – tạo cơ sở thích ứng phù hợp. Trong những năm gần đây, độ mặn trên sông Sài Gòn ngày càng tăng. Tình trạng thiếu nước, XNM trong mùa khô diễn ra ngày càng gay gắt, ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống cấp nước cho thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Tại trạm bơm nước thô Hòa Phú (trên sông Sài Gòn thuộc huyện Củ Chi), từ cuối tháng 1-2016 đến nay, độ mặn thường xuyên trên ngưỡng 150 mg/L; nhiều đợt độ mặn vượt 250 mg/L, mỗi đợt kéo dài 2-3 giờ buộc Nhà máy nước (NMN) Tân Hiệp (huyện Hóc Môn) phải ngừng lấy nước thô (tổng cộng 15 giờ). Tại khu vực cầu Hóa An (vị trí khai thác nước thô của các NMN Thủ Đức, BOO Thủ Đức, Thủ Đức 3), độ mặn cũng có xu hướng gia tăng, gây nhiều khó khăn cho vận hành và sản xuất. Do đó, tình hình XNM tại TPHCM cần được quan tâm quản lý, đặc biệt trong bối cảnh BĐKH. Vì vậy, nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá diễn biến XNM trên các sông chính chảy qua khu vực TPHCM (sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông Nhà Bè) trong 10 năm gần đây (2006-2015), bao gồm diễn biến độ mặn cao nhất, thấp nhất và trung bình, chỉ ra các khu vực nhạy cảm với XNM, tạo cơ sở cho việc 182 L. N. Tuấn, N. L. P. Nguyệt, H. A. Kiệt, “Diễn biến xâm nhập… thành phố Hồ Chí Minh.” Nghiên cứu khoa học công nghệ đề xuất các giải pháp thích ứng, giảm thiểu tác động của XNM, góp phần đảm bảo phát triển bền vững tại địa phương. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Phương pháp thu thập tài liệu Số liệu độ mặn theo giờ tại các trạm Nhà Bè, Cát Lái, Thủ Thiêm (giai đoạn 2006-2015), trạm Long Đại, Lái Thiêu, cầu Ông Thìn, trạm Lý Nhơn (năm 2015) được thu thập tại Đài Khí tượng Thủy văn Khu vực Nam bộ phục vụ đánh giá. Đặc điểm dữ liệu và phương án đánh giá diễn biến độ mặn tại các trạm quan trắc: Tại trạm Nhà Bè: độ mặn được quan trắc theo giờ từ tháng 2-6 hàng năm, tuy nhiên trong một tháng chỉ quan trắc khoảng 15 ngày không liên tục. Do đó, diễn biến độ mặn tại trạm Nhà Bè sẽ được đánh giá theo tháng (chọn các tháng mùa khô và tháng chuyển tiếp: từ tháng 2-5 hàng năm). Tại trạm Cát Lái và trạm Thủ Thiêm: độ mặn được quan trắc theo giờ tất cả các ngày trong tháng 4 hàng năm. Do đó, diễn biến độ mặn tại 2 trạm này được đánh giá theo ngày; đồng thời sự dao động của độ mặn được đánh giá qua biên độ tháng và biên độ ngày. Ngoài ra, số liệu quan trắc độ mặn định kỳ tại TpHCM (các trạm Bến Củi, Thị Tính, Phú Cường, Lái Thiêu, Long Đại, Kênh Xáng – An Hạ, Cống Kênh C, Cầu Ông Thìn, Lý Nhơn), Bình Dương (trạm Hóa An) và Đồng Nai (SW-DN-14, SW- DN-15, SW-DN-16, SW-DN-17, SW-DN-18, SW-DN-19, SW-NB-01, SW-DT- 01, SW-DT-02, SW-TL-02, SW-TV-05, SW-GG-01 và SW-GG-02) cũng được thu thập phục vụ đánh giá phân bố độ mặn cao nhất năm tạ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Diễn biến xâm nhập mặn trên các sông chính chảy qua địa bàn thành phố Hồ Chí Minh Hóa học & Kỹ thuật môi trường DIỄN BIẾN XÂM NHẬP MẶN TRÊN CÁC SÔNG CHÍNH CHẢY QUA ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Lê Ngọc Tuấn 1, Nguyễn Lê Phương Nguyệt 2, Huỳnh Anh Kiệt 3* Tóm tắt: Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá diễn biến xâm nhập mặn (XNM) trên các sông chính chảy qua khu vực thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) như sông Nhà Bè, Sài Gòn, Đồng Nai trong 10 năm gần đây (2006 - 2015), bao gồm diễn biến độ mặn cao nhất, thấp nhất và trung bình; biên độ mặn mùa khô và theo tháng. Kết quả cho thấy, độ mặn trên các sông gia tăng, XNM có xu hướng ngày càng lấn sâu vào nội địa, đỉnh mặn thường xuất hiện vào tháng 2 đến tháng 4. Sông Nhà Bè chịu ảnh hưởng của XNM lớn nhất (dao động từ 2,49 – 13,1‰ qua các năm), tiếp đó là các sông Đồng Nai (0,2 – 9,3‰), sông Sài Gòn (0,2 – 6,2‰), có nguy cơ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, sinh hoạt cũng như cấp nước tại huyện Bình Chánh, Nhà Bè và Cần Giờ. Do đó, đòi hỏi nghiên cứu, đánh giá tính dễ bị tổn thương do XNM đến các ngành, lĩnh vực, là cơ sở hoạch định các giải pháp ứng phó tương thích, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Từ khóa: Khả năng thích ứng, Biến đổi khí hậu, Cộng đồng. 1. MỞ ĐẦU Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH), nhiều nơi trên thế giới đang đối mặt với nhiều thiên tai như bão lớn, nắng nóng, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn (XNM)… gây thiệt hại nặng nề, đặc biệt tại Việt Nam [1]. BĐKH và nước biển dâng (NBD) gây sức ép lên môi trường nói chung và nguồn nước nói riêng, ảnh hưởng lớn đến dòng chảy trên các sông bởi sự thay đổi nhiệt độ, lượng mưa [2-3], mực nước biển [4]…, gián tiếp ảnh hưởng đến quá trình XNM, đặc biệt là ở những vùng cửa sông và ven biển. Việc giảm lượng nước ngọt thượng nguồn do gia tăng nhiệt độ và giảm lượng mưa vào mùa kiệt, kết hợp với dòng chảy triều tăng do mực NBD làm mặn ngày càng xâm nhập sâu hơn vào nội đồng [5], ảnh hưởng đến các hoạt động dân sinh kinh tế như nông nghiệp [6], thủy sản [7], và hệ sinh thái tự nhiên…, quan ngại nhất là nguồn nước sinh hoạt ở hạ lưu sông [8]. Nói cách khác, XNM trong bối cảnh BĐKH là một trong những thách thức lớn, cần nghiên cứu, đánh giá – tạo cơ sở thích ứng phù hợp. Trong những năm gần đây, độ mặn trên sông Sài Gòn ngày càng tăng. Tình trạng thiếu nước, XNM trong mùa khô diễn ra ngày càng gay gắt, ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống cấp nước cho thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Tại trạm bơm nước thô Hòa Phú (trên sông Sài Gòn thuộc huyện Củ Chi), từ cuối tháng 1-2016 đến nay, độ mặn thường xuyên trên ngưỡng 150 mg/L; nhiều đợt độ mặn vượt 250 mg/L, mỗi đợt kéo dài 2-3 giờ buộc Nhà máy nước (NMN) Tân Hiệp (huyện Hóc Môn) phải ngừng lấy nước thô (tổng cộng 15 giờ). Tại khu vực cầu Hóa An (vị trí khai thác nước thô của các NMN Thủ Đức, BOO Thủ Đức, Thủ Đức 3), độ mặn cũng có xu hướng gia tăng, gây nhiều khó khăn cho vận hành và sản xuất. Do đó, tình hình XNM tại TPHCM cần được quan tâm quản lý, đặc biệt trong bối cảnh BĐKH. Vì vậy, nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá diễn biến XNM trên các sông chính chảy qua khu vực TPHCM (sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông Nhà Bè) trong 10 năm gần đây (2006-2015), bao gồm diễn biến độ mặn cao nhất, thấp nhất và trung bình, chỉ ra các khu vực nhạy cảm với XNM, tạo cơ sở cho việc 182 L. N. Tuấn, N. L. P. Nguyệt, H. A. Kiệt, “Diễn biến xâm nhập… thành phố Hồ Chí Minh.” Nghiên cứu khoa học công nghệ đề xuất các giải pháp thích ứng, giảm thiểu tác động của XNM, góp phần đảm bảo phát triển bền vững tại địa phương. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Phương pháp thu thập tài liệu Số liệu độ mặn theo giờ tại các trạm Nhà Bè, Cát Lái, Thủ Thiêm (giai đoạn 2006-2015), trạm Long Đại, Lái Thiêu, cầu Ông Thìn, trạm Lý Nhơn (năm 2015) được thu thập tại Đài Khí tượng Thủy văn Khu vực Nam bộ phục vụ đánh giá. Đặc điểm dữ liệu và phương án đánh giá diễn biến độ mặn tại các trạm quan trắc: Tại trạm Nhà Bè: độ mặn được quan trắc theo giờ từ tháng 2-6 hàng năm, tuy nhiên trong một tháng chỉ quan trắc khoảng 15 ngày không liên tục. Do đó, diễn biến độ mặn tại trạm Nhà Bè sẽ được đánh giá theo tháng (chọn các tháng mùa khô và tháng chuyển tiếp: từ tháng 2-5 hàng năm). Tại trạm Cát Lái và trạm Thủ Thiêm: độ mặn được quan trắc theo giờ tất cả các ngày trong tháng 4 hàng năm. Do đó, diễn biến độ mặn tại 2 trạm này được đánh giá theo ngày; đồng thời sự dao động của độ mặn được đánh giá qua biên độ tháng và biên độ ngày. Ngoài ra, số liệu quan trắc độ mặn định kỳ tại TpHCM (các trạm Bến Củi, Thị Tính, Phú Cường, Lái Thiêu, Long Đại, Kênh Xáng – An Hạ, Cống Kênh C, Cầu Ông Thìn, Lý Nhơn), Bình Dương (trạm Hóa An) và Đồng Nai (SW-DN-14, SW- DN-15, SW-DN-16, SW-DN-17, SW-DN-18, SW-DN-19, SW-NB-01, SW-DT- 01, SW-DT-02, SW-TL-02, SW-TV-05, SW-GG-01 và SW-GG-02) cũng được thu thập phục vụ đánh giá phân bố độ mặn cao nhất năm tạ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Khả năng thích ứng Biến đổi khí hậu Diễn biến xâm nhập mặn Biên độ mặn mùa khô Phương pháp GISTài liệu liên quan:
-
báo cáo chuyên đề GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
78 trang 291 0 0 -
Hạ tầng xanh – giải pháp bền vững cho thoát nước đô thị
17 trang 232 1 0 -
13 trang 210 0 0
-
Đồ án môn học: Bảo vệ môi trường không khí và xử lý khí thải
20 trang 194 0 0 -
Đề xuất mô hình quản lý rủi ro ngập lụt đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu
2 trang 186 0 0 -
Bài tập cá nhân môn Biến đổi khí hậu
14 trang 181 0 0 -
161 trang 180 0 0
-
Bài giảng Cơ sở khoa học của biến đổi khí hậu (Đại cương về BĐKH) – Phần II: Bài 5 – ĐH KHTN Hà Nội
10 trang 167 0 0 -
15 trang 142 0 0
-
Dự báo tác động của biến đổi khí hậu đến thủy sản và đề xuất giải pháp thích ứng
62 trang 136 0 0