Danh mục

Giáo trình Lý thuyết hệ điều hành: Phần 2 - Nguyễn Kim Tuấn

Số trang: 139      Loại file: pdf      Dung lượng: 2.02 MB      Lượt xem: 118      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tiếp nội dung phần 1, Giáo trình Lý thuyết hệ điều hành: Phần 2 được biên soạn gồm các nội dung chính sau: Nhiệm vụ của quản lý bộ nhớ; Kỹ thuật cấp phát bộ nhớ (nạp chương trình vào bộ nhớ chính); Sự phân trang/đoạn trong hệ điều hành Windown NT; Tổng quan về quản lý tập tin và đĩa;...Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình Lý thuyết hệ điều hành: Phần 2 - Nguyễn Kim Tuấn một tiến trình, nó không tự động tạo một tiểu trình. Do đó, đối với các hệ điều hành này, hệ thống con gọi trình quản lý tiến trình windows NT một lần nữa để tạo ra một tiểu trình cho tiến trình mới, mà nó nhận được một handle của tiểu trình từ windows NT. Thông tin tiểu trình và tiến trình thích hợp sau đó được trả lại cho ứng dụng. Trong Windows 16-bit và POSIX, các tiểu trình không được hỗ trợ. Do đó, đối với các hệ điều hành như thế này, hệ thống con có một tiểu trình cho tiến trình mới từ windows NT, cho nên tiến trình có thể được kích hoạt, nhưng chi trả lại thông tin tiến trình cho ứng dụng. Trong thực tế, tiến trình ứng dụng được cài đặt bằng cách sử dụng một tiểu trình không thấy cho ứng dụng. Khi một tiến trình mới được tạo trong Win32 hay OS/2, tiến trình mới thừa kế nhiều đặc tính của nó từ tiến trình tạo. Tuy nhiên, trong môi trường hệ điều hành windows NT, việc tạo tiến trình này không được thực hiện trực tiếp. Một tiến trình client ứng dụng phát ra yêu cầu tạo tiến trình của nó đến cho hệ thống con hệ điều hành; sau đó một tiến trình trong hệ thống con đến lượt nó phát ra một yêu cầu tiến trình cho thành phần Executive của windows NT. Vì tác dụng mong đợi là tiến trình mới thừa kế các đặc tính của tiến trình client và không thừa kế từ tiến trình server, nên windows NT cho phép hệ thống con chỉ định cha của tiến trình mới. Sau đó tiến trình mới thừa kế token truy xuất, thời gian quota, độ ưu tiên cơ sở, và mối quan hệ processor mặc định của tiến trình cha. Trong windows NT, không có quan hệ được định nghĩa trước giữa các tiến trình. Tuy nhiên, cả hệ điều hành POSIX và hệ điều hành OS/2 đều áp đặt một mối quan hệ phân cấp. Mỗi tiến trình mở rộng một tiến trình ban đầu được tạo bởi một tiến trình khác và được xem như cấp dưới tiến trình tạo ra nó. Bằng cách sử dụng các handle đối tượng, hệ thống con hệ điều hành có thể duy trì các mối quan hệ giữa các tiến trình này. Chương III QUẢN LÝ BỘ NHỚ Quản lý bộ nhớ là một trong những nhiệm vụ quan trọng và phức tạp nhất của hệ điều hành. Bộ phận quản lý bộ nhớ xem bộ nhớ chính như là một tài nguyên của hệ thống dùng để cấp phát và chia sẻ cho nhiều tiến trình đang ở trong trạng thái active. Các hệ điều hành đều mong muốn có nhiều hơn các tiến trình trên bộ nhớ chính. Công cụ cơ bản của quản lý bộ nhớ là sự phân trang (paging) và sự phân đoạn (segmentation). Với sự phân trang mỗi tiến trình được chia thành nhiều phần nhỏ có quan hệ với nhau, với kích thước của trang là cố định. Sự phân đoạn cung cấp cho chươngtrình người sử dụng các khối nhớ có kích thước khác nhau. Hệ điều hành cũng có thể kết hợp giữa phân trang và phân đoạn để có được một chiến lược quản lý bộ nhớ linh hoạt hơn. III.9. Nhiệm vụ của quản lý bộ nhớ Trong các hệ thống đơn chương trình (uniprogramming), trên bộ nhớ chính ngoài hệ điều hành, chỉ có một chương trình đang thực hiện. Trong các hệ thống đa chương (multiprogramming) trên bộ nhớ chính ngoài hệ điều hành, có thể có nhiều tiến trình đang hoạt động. Do đó nhiệm vụ quản lý bộ nhớ của hệ điều hành trong hệ thống đa chương trình sẽ phức tạp hơn nhiều so với trong hệ thống đơn chương trình. Trong hệ thống đa chương bộ phận quản lý bộ nhớ phải có nhiệm vụ đưa bất kỳ một tiến trình nào đó vào bộ nhớ khi nó có yêu cầu, kể cả khi trên bộ nhớ không còn không gian trống, ngoài ra nó phải bảo vệ chính hệ điều hành và các tiến trình trên bộ nhớ tránh các trường hợp truy xuất bất hợp lệ xảy ra. Như vậy việc quản lý bộ nhớ trong các hệ thống đa chương là quan trọng và cần thiết. Bộ phận quản lý bộ nhớ phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây:  Sự tái định vị (Relocation): Trong các hệ thống đa chương, không gian bộ nhớ chính thường được chia sẻ cho nhiều tiến trình khác nhau và yêu cầu bộ nhớ của các tiến trình luôn lớn hơn không gian bộ nhớ vật lý mà hệ thống có được. Do dó, một chương trình đang hoạt động trên bộ nhớ cũng có thể bị đưa ra đĩa (swap- out) và nó sẽ được đưa vào lại (swap-in) bộ nhớ tại một thời điểm thích hợp nào đó sau này. Vấn đề đặt ra là khi đưa một chương trình vào lại bộ nhớ thì hệ điều hành phải định vị nó vào đúng vị trí mà nó đã được nạp trước đó. Để thực hiện được điều này hệ điều hành phải có các cơ chế để ghi lại tất cả các thông tin liên quan đến một chương trình bị swap-out, các thông tin này là cơ sở để hệ điều hành swap-in chương trình vào lại bộ nhớ chính và cho nó tiếp tục hoạt động. Hệ điều hành buộc phải swap-out một chương trình vì nó còn không gian bộ nhớ chính để nạp tiến trình khác, do dó sau khi swap-out một chương trình hệ điều hành phải tổ chức lại bộ nhớ để chuẩn bị nạp tiến trình vừa có yêu cầu. Các nhiệm vụ trên do bộ phần quản lý bộ nhớ của hệ điều hành thực hiện. Ngoài ra trong nhiệm vụ này hệ điều hành phải có khả năng chuyển đổi các địa chỉ bộ nhớ được ghi trong code của chương trình thành các địa chỉ vật lý thực tế trên bộ nhớ chính khi chương trình thực hiện các thao tác truy xuất trên bộ nhớ, bởi vì người lập trình không hề biết trước hiện trạng của bộ nhớ chính và vị trí mà chương trình được nạp khi chương trình của họ hoạt động. Trong một số trường hợp khác các chương trình bị swap- out có thể được swap-in vào lại bộ nhớ tại vị trí khác với vị trí mà nó được nạp trước đó.  Bảo vệ bộ nhớ (Protection): Mỗi tiến trình phải được bảo vệ để chống lại sự truy xuất bất hợp lệ vô tình hay có chủ ý của các tiến trình khác. Vì thế các tiến trình trong các chương trình khác không thể tham chiếu đến các vùng nhớ đã dành cho một tiến trình khác để thực hiện các thao tác đọc/ghi mà không được phép (permission), mà nó chỉ có thể truy xuất đến không gian địa chỉ bộ nhớ mà hệ điều hành đã cấp cho tiến trình đó. Để thực hiện điều này hệ thống quản lý bộ nhớ phải biết được không gian địa chỉ của các tiến trình khác trên bộ nhớ và phải kiểm tra tất cả các yêu cầu truy xuất bộ nhớ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: