Hình ảnh người phụ nữ trong ca dao xưa
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 193.70 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hình ảnh người phụ nữ trong ca dao xưaCa dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam được lưu truyền qua bao năm tháng. Nó bồi đắp tâm hồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru êm đềm của bà của mẹ. Nó rực rỡ, thơm ngát như bông sen trong đầm, gần gũi, quen thuộc như luỹ tre bao bọc xóm làng, như cánh cò bay lả trên ruộng đồng. Nó bồi đắp tâm hồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru của bà của mẹ, giúp ta cảm nhận sâu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hình ảnh người phụ nữ trong ca dao xưa Hình ảnh người phụ nữ trong ca dao xưaCa dao là khúc hát tâm tình của người dân quê ViệtNam được lưu truyền qua bao năm tháng. Nó bồi đắptâm hồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru êm đềm củabà của mẹ. Nó rực rỡ, thơm ngát như bông sen trongđầm, gần gũi, quen thuộc như luỹ tre bao bọc xóm làng,như cánh cò bay lả trên ruộng đồng. Nó bồi đắp tâmhồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru của bà của mẹ,giúp ta cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình yên nơi thônquê, nỗi nhọc nhằn cũng như vẻ đẹp khoẻ khoắn củangười lao động, tình cảm gia đình thắm thiết, nghĩa vợchồng tao khang của những con người quê chân chất,mộc mạc.Trong thế giới đó, lắng sâu hơn cả vẫn là hình ảnh củanhững người phụ nữ xưa – đau khổ, cay đắng đến cùngcực nhưng cũng đẹp đẽ, cao quý đến vô ngần. Có thểnói, ca dao đã làm tròn sứ mệnh của nó trong việc l ưugiữ những nỗi lòng của người phụ nữ bình dân xưa vàmang đến cho ta cái nhìn toàn diện về họ, trong khổ đaucũng như những vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng.Xã hội phong kiến phụ quyền tồn tại hàng nghìn nămvới những quan niệm bất công, khe khắt “tại gia tong phụ, xuất giá t òng phu, phutử tong tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”,đã dành mọi ưu tiên, ưu đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vịthấp kém nhất trong gia đình cũng như xã hội. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vàonhững câu ca dao than thân:- “Thân em như tấm lụa đàoPhất phơ giữa chợ biết vào tay ai”- “Thân em như hạt mưa saHạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”- “Thân em như chổi đầu hèPhòng khi mưa gió đi về chùi chânChùi rồi lại vứt ra sânGọi người hàng xóm có chân thì chùi”Có biết bao nhiêu nỗi khổ mà người phụ nữ phải chịu đựng, nỗi khổ vật chất“ngày ngày hai buổi trèo non”, “ngày thì dãi n ắng đêm thì dầm sương”. Nhưng nỗikhổ lớn nhất, xuất hiện với tần số cao nhất vẫn là nỗi khổ về tinh thần, nỗi khổ củathân phận mong manh, bị động, ít giá trị. Những người phụ nữ ở đây bị “đồ vậthoá”, được định giá theo giá trị sử dụng. Thân phận họ chỉ đ ược ví với “hạy mưasa”, “chổi đầu hè”...Ta có thể cảm nhận được bao nỗi xót xa của người phụ nữ khicất lên những lời ca ấy. Không phải người phụ nữ không ý thức được vẻ đẹp vàphẩm giá đáng quý của mình. Họ luôn ví mình với “tấm lụa đào”, “giếng nướctrong”...nhưng những phẩm chất ấy đâu có được xã hội , người đời biết đến và coitrọng. Cả đời họ chỉ lầm lũi, cam chịu trong sự đau khổ, nhọc nhằn. V à dường nhưsự bất hạnh ấy của người phụ nữ trong xã hội xưa là một hằng số chung, ở tất cảcác vùng miền. Người phụ nữ dân tộc Thái cũng từng đau đớn thốt lên: “Thân emchỉ bằng thân con bọ ngựa, con chão chuộc thôi”.Có ai đó đã nói, nếu dùng một từ để nói về số phận của những người phụ nữ trongxã hội phong kiến thì đó là “tủi nhục”. Quãng thời gian họ sống trên đời đượcđong đếm bằng những nỗi đau khổ mà họ phải gánh chịu. Khi còn nhỏ, sống tronggia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công của quan niệm “trọng nam khinhnữ”:- “Cô kia cắt cỏ đồng màuChăn trâu cho béo làm giàu cho chaGiàu thì chia bày chia baPhận cô là gái được là bao nhiêu”- “Em như quả bí trên câyDang tay mẹ bứt những ngày còn non”Khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuất giá tòngphu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng” đã khiến bao người phụ nữ xa quê phải ngậmngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn, nhớ khi nghĩ về quê mẹ:- “Chiều chiều ra đứng bờ sôngMuốn về với mẹ mà không có đò”- “Chiều chiều ra đứng ngõ sautrông về quê mẹ ruột đau chín chiều”- “Chiều chiều xách giỏ hái rauNgó lên mả mẹ ruột đau như dần”Nhớ nhà nhớ mẹ mà không được về, những người đi làm dâu còn phải chịu sự đàyđoạ của gia đình nhà chồng, đặc biệt là mẹ chồng. Trong chế độ cũ, những ngườimẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu vì xã hội phogkiến với quan niệm hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khácnào mua người lànm không công, trả cái nợ đồng lần mà chính người mẹ chồngtrước đây phải gánh chịu:- “Tiếng đồn cha mẹ anh hiềnCắn cơm không vỡ cắn tiền vỡ tan”- “Trách cha, trách mẹ nhà chàngCầm cân chẳng biết là vàng hay thauThực vàng chẳng phải thau đâuĐừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”Trong hoàn cảnh ấy đại đa số những người phụ nữ phải cam chịu, nín nhịn nhưngcũng có trường hợp, người con dâu tỏ thái độ phản kháng có phần quyết liệt, cô“đội nón về nhà mình” dẫu biết hành động ấy sẽ bị lên án, bị không ít tiếng thị phi,cay độc vì trong xã hội xưa còn gì đáng sợ hơn bằng tội “trốn chúa, lộn chồng”:“Cô kia đội nón đi đâuTôi là phận gái làm dâu mới vềMẹ chồng ác nghiệt đã ghêTôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi”Sở dĩ họ phải phản kháng là do không còn nơi để bấu víu, tựa nương. Mẹ chồng đãvậy, lại còn chịu thêm nỗi khổ của “cảnh chồng chung”. Xã hội phong kiến chophép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” đã gâyra bao cảnh đau lòng. Nhân dân hướng về những người vợ lẽ - những ngườ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hình ảnh người phụ nữ trong ca dao xưa Hình ảnh người phụ nữ trong ca dao xưaCa dao là khúc hát tâm tình của người dân quê ViệtNam được lưu truyền qua bao năm tháng. Nó bồi đắptâm hồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru êm đềm củabà của mẹ. Nó rực rỡ, thơm ngát như bông sen trongđầm, gần gũi, quen thuộc như luỹ tre bao bọc xóm làng,như cánh cò bay lả trên ruộng đồng. Nó bồi đắp tâmhồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru của bà của mẹ,giúp ta cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình yên nơi thônquê, nỗi nhọc nhằn cũng như vẻ đẹp khoẻ khoắn củangười lao động, tình cảm gia đình thắm thiết, nghĩa vợchồng tao khang của những con người quê chân chất,mộc mạc.Trong thế giới đó, lắng sâu hơn cả vẫn là hình ảnh củanhững người phụ nữ xưa – đau khổ, cay đắng đến cùngcực nhưng cũng đẹp đẽ, cao quý đến vô ngần. Có thểnói, ca dao đã làm tròn sứ mệnh của nó trong việc l ưugiữ những nỗi lòng của người phụ nữ bình dân xưa vàmang đến cho ta cái nhìn toàn diện về họ, trong khổ đaucũng như những vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng.Xã hội phong kiến phụ quyền tồn tại hàng nghìn nămvới những quan niệm bất công, khe khắt “tại gia tong phụ, xuất giá t òng phu, phutử tong tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”,đã dành mọi ưu tiên, ưu đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vịthấp kém nhất trong gia đình cũng như xã hội. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vàonhững câu ca dao than thân:- “Thân em như tấm lụa đàoPhất phơ giữa chợ biết vào tay ai”- “Thân em như hạt mưa saHạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”- “Thân em như chổi đầu hèPhòng khi mưa gió đi về chùi chânChùi rồi lại vứt ra sânGọi người hàng xóm có chân thì chùi”Có biết bao nhiêu nỗi khổ mà người phụ nữ phải chịu đựng, nỗi khổ vật chất“ngày ngày hai buổi trèo non”, “ngày thì dãi n ắng đêm thì dầm sương”. Nhưng nỗikhổ lớn nhất, xuất hiện với tần số cao nhất vẫn là nỗi khổ về tinh thần, nỗi khổ củathân phận mong manh, bị động, ít giá trị. Những người phụ nữ ở đây bị “đồ vậthoá”, được định giá theo giá trị sử dụng. Thân phận họ chỉ đ ược ví với “hạy mưasa”, “chổi đầu hè”...Ta có thể cảm nhận được bao nỗi xót xa của người phụ nữ khicất lên những lời ca ấy. Không phải người phụ nữ không ý thức được vẻ đẹp vàphẩm giá đáng quý của mình. Họ luôn ví mình với “tấm lụa đào”, “giếng nướctrong”...nhưng những phẩm chất ấy đâu có được xã hội , người đời biết đến và coitrọng. Cả đời họ chỉ lầm lũi, cam chịu trong sự đau khổ, nhọc nhằn. V à dường nhưsự bất hạnh ấy của người phụ nữ trong xã hội xưa là một hằng số chung, ở tất cảcác vùng miền. Người phụ nữ dân tộc Thái cũng từng đau đớn thốt lên: “Thân emchỉ bằng thân con bọ ngựa, con chão chuộc thôi”.Có ai đó đã nói, nếu dùng một từ để nói về số phận của những người phụ nữ trongxã hội phong kiến thì đó là “tủi nhục”. Quãng thời gian họ sống trên đời đượcđong đếm bằng những nỗi đau khổ mà họ phải gánh chịu. Khi còn nhỏ, sống tronggia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công của quan niệm “trọng nam khinhnữ”:- “Cô kia cắt cỏ đồng màuChăn trâu cho béo làm giàu cho chaGiàu thì chia bày chia baPhận cô là gái được là bao nhiêu”- “Em như quả bí trên câyDang tay mẹ bứt những ngày còn non”Khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuất giá tòngphu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng” đã khiến bao người phụ nữ xa quê phải ngậmngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn, nhớ khi nghĩ về quê mẹ:- “Chiều chiều ra đứng bờ sôngMuốn về với mẹ mà không có đò”- “Chiều chiều ra đứng ngõ sautrông về quê mẹ ruột đau chín chiều”- “Chiều chiều xách giỏ hái rauNgó lên mả mẹ ruột đau như dần”Nhớ nhà nhớ mẹ mà không được về, những người đi làm dâu còn phải chịu sự đàyđoạ của gia đình nhà chồng, đặc biệt là mẹ chồng. Trong chế độ cũ, những ngườimẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu vì xã hội phogkiến với quan niệm hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khácnào mua người lànm không công, trả cái nợ đồng lần mà chính người mẹ chồngtrước đây phải gánh chịu:- “Tiếng đồn cha mẹ anh hiềnCắn cơm không vỡ cắn tiền vỡ tan”- “Trách cha, trách mẹ nhà chàngCầm cân chẳng biết là vàng hay thauThực vàng chẳng phải thau đâuĐừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”Trong hoàn cảnh ấy đại đa số những người phụ nữ phải cam chịu, nín nhịn nhưngcũng có trường hợp, người con dâu tỏ thái độ phản kháng có phần quyết liệt, cô“đội nón về nhà mình” dẫu biết hành động ấy sẽ bị lên án, bị không ít tiếng thị phi,cay độc vì trong xã hội xưa còn gì đáng sợ hơn bằng tội “trốn chúa, lộn chồng”:“Cô kia đội nón đi đâuTôi là phận gái làm dâu mới vềMẹ chồng ác nghiệt đã ghêTôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi”Sở dĩ họ phải phản kháng là do không còn nơi để bấu víu, tựa nương. Mẹ chồng đãvậy, lại còn chịu thêm nỗi khổ của “cảnh chồng chung”. Xã hội phong kiến chophép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” đã gâyra bao cảnh đau lòng. Nhân dân hướng về những người vợ lẽ - những ngườ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
thơ cuộc sống thơ học hành thơ tình yêu thơ lục bát cao dao việt nam hình ảnh người phụ nữ trong cao dao xưaTài liệu liên quan:
-
Đề thi học kì 1 môn Ngữ văn lớp 6 năm 2022-2023 có đáp án - Trường THCS Đỗ Đăng Tuyển
7 trang 300 0 0 -
Giáo án môn Ngữ văn lớp 6 bài 3: Vẻ đẹp quê hương
83 trang 69 0 0 -
16 trang 64 0 0
-
Bàn thêm về sự hình thành của thể lục bát
11 trang 35 0 0 -
Đề thi học kì 1 môn Ngữ văn lớp 6 năm 2023-2024 có đáp án - Trường THCS Phan Tây Hồ, Phú Ninh
11 trang 27 1 0 -
Đề thi học kì 2 môn Ngữ văn lớp 8 năm 2023-2024 có đáp án - Phòng GD&ĐT Xuân Trường
6 trang 27 0 0 -
19 trang 25 0 0
-
4 trang 25 0 0
-
Đề thi học kì 1 môn Ngữ văn lớp 6 năm 2023-2024 có đáp án - Trường THCS Phan Bội Châu, Hội An
11 trang 25 0 0 -
Đề thi học kì 2 môn Ngữ văn lớp 8 năm 2023-2024 - Trường THCS Nguyễn Du, Tam Kỳ
3 trang 25 0 0