Danh mục

Hoạt động kinh tế vỉa hè và quá trình xây dựng nếp sống văn minh đô thị ở TPHCM

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 176.31 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

“Kinh tế vỉa hè” (KTVH) - một bộ phận của khu vực kinh tế phi chính thức - về bản chất là một dạng hoạt động buôn bán nhỏ để kiếm sống của một bộ phận người dân đô thị nhằm đáp ứng nhu cầu dịch vụ và hàng hóa giá rẻ, tiện lợi và tiết kiệm thời gian cho cư dân đô thị. KTVH là khái niệm tạm dùng để chỉ các hoạt động mua bán, kinh doanh của người dân có liên quan đến vỉa hè, đường hẻm, khu vực dân cư (không phải tại chợ, nơi được...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hoạt động kinh tế vỉa hè và quá trình xây dựng nếp sống văn minh đô thị ở TPHCM Hoạt động kinh tế vỉa hè và quá trình xây dựng nếp sống văn minh đô thị ở TP.HCM Phạm Thanh Thôi Khoa Nhân học Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM “Kinh tế vỉa hè” (KTVH) - một bộ phận của khu vực kinh tế phi chính thức - về bản chất là một dạng hoạt động buôn bán nhỏ để kiếm sống của một bộ phận người dân đô thị nhằm đáp ứng nhu cầu dịch vụ và hàng hóa giá rẻ, tiện lợi và tiết kiệm thời gian cho cư dân đô thị. KTVH là khái niệm tạm dùng để chỉ các hoạt động mua bán, kinh doanh của người dân có liên quan đến vỉa hè, đường hẻm, khu vực dân cư (không phải tại chợ, nơi được quy hoạch chính thức). KTVH ở TP Hồ Chí Minh có thể tạm chia thành hai nhóm đối tượng hoạt động chính: nhóm cố định (mặt tiền nhà kết hợp với không gian công cộng) và nhóm lưu động (không có mặt tiền nhà, buôn bán ngay trên vỉa hè, đường hẻm, trong khu dân cư). Từ lâu, hoạt động KTVH ở TP Hồ Chí Minh đã gắn liền với sự phát triển không gian đô thị và quá trình tăng trưởng kinh tế và quần cư đô thị. Các loại hàng hoá và dịch vụ của hoạt động KTVH luôn đa dạng, phong phú về chủng loại, đáp ứng được nhiều các nhu cầu về ăn, uống, mặc, ở, dụng cụ lao động, vui ch ơi, giải trí, học hành, thư giãn,… của đông đảo cư dân. Bên cạnh những tác động xấu do hoạt động KTVH đem lại cho không gian văn hóa và văn minh đô thị như mất trật tự, ô nhiễm môi trường, kẹt xe, không có không gian đi bộ, không gian nghỉ ngơi…. Hoạt động KTVH cũng đã đóng góp rất quan trọng đến việc ổn định thu nhập và đời sống của hàng nghìn người dân, kể cả những đơn vị quản lý hành chánh cấp phường xã (thông qua việc thu thuế)… Dù vậy, từ lâu các loại hình hoạt động KTVH vẫn được coi là lĩnh vực kinh tế phi chính thức. Nguyên nhân tồn tại KTVH Cùng với quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa mạnh mẽ, TP Hồ Chí Minh mỗi năm đã thu hút hàng trăm nghìn người từ các tỉnh khác di chuyển đến học hành, mưu sinh,… Là một quốc gia đang phát triển, gần 80% dân số sinh ra và lớn lên ở nông thôn, do đó phần lớn những người di chuyển từ các tỉnh đến TP Hồ Chí Minh (đô thị lớn nhất nước) đã xuất phát từ những điều kiện sống thấp. Đặc biệt là trình độ học vấn, tay nghề, thói quen, kỹ năng và kỹ luật lao động… không cao. Do đó, khi đến TP Hồ Chí Minh nhiều người đã làm các việc phi chính thức để mưu sinh, trong đó một bộ phận người dân đã tham gia vào những hoạt động KTVH. Theo kết quả khảo sát của Viện kinh tế TP Hồ Chí Minh (2003) tại 35 tuyến đường tại một số quận nội thành, hầu hết người dân hoạt động KTVH lưu động đều đến từ các tỉnh (miền) khác: các tỉnh đồng bằng Sông Hồng (48%); các tỉnh duyên hải miền Trung (23%); ở TP Hồ Chí Minh (12%). Còn với số người hoạt động KTVH cố định có nơi sinh ở TP Hồ Chí Minh (53,6%); DHMT (17,4%) và ĐBSCL (13,6%); ĐBSH (6,6%). Với những người hoạt động KTVH cố định đa phần đã định cư ở TP Hồ Chí Minh trên 10 năm, ngược lại những người hoạt động trong lĩnh vực KTVH lưu động có thời gian đến TP Hồ Chí Minh trể hơn, từ 5-7 năm chiếm hơn 50% mẫu khảo sát. Và số người hoạt động KTVH nói chung, có trình độ học vấn không cao, từ cấp 2 trở lại chiếm khoảng 80% (D ư Phước Tân, Viện Kinh tế TP, 2004). Do điều kiện và khả năng cá nhân, nhiều người cũng chưa tha thiết với việc học nghề, học việc mà họ đã hài lòng với việc “hành nghề” và khoảng thu nhập có được từ các hoạt động KTVH của mình. Những loại hình dịch vụ và buôn bán nhỏ có lẻ đã rất phù hợp với thói quen “tự do” (về thời gian), phù hợp với năng lực, tuổi tác… của họ. Với những người bán thịt, cá, rau quả, quán ăn, thức uống, vé số, chạy xe ôm, ba gác, xích lô, sửa xe, bán báo, quần áo, nón, gi ày dép... có thể ngưng và bắt đều công việc lại bất cứ lúc nào tuỳ thích. Đáng lưu ý, liên quan đến nguyên nhân vì sao người dân lại hoạt động trong lĩnh vực KTVH, theo kết quả điều tra vào tháng 6/2004 tại 8 quận nội thành (Nguyễn Thế Cường, Đại học Kiến trúc TP Hồ Chí Minh) cho thấy: ít vốn: 69,3%; không cần chuyên môn: 47,1%; giờ giấc thoải mái: 40,7%; không có nhà mặt tiền (bán lưu động): 40,0%. Với nhiều hộ (cá nhân) hoạt động KTVH, trong thời gian qua họ không phải không cảm nhận được nỗi nhọc nhằn khi bị lực lượng công an khu vực phạt tiền, tịch thu tài sàn, cảnh cáo, rượt đuổi, hoặc thường xuyên bị khiển trách tại buổi họp tổ dân phố, khu phố… nhưng do nhiều nguyên nhân như đã nói ở trên, họ vẫn phải tiếp tục “tự thu xếp” để “bấu víu” với việc buôn bán. Những năm qua, với áp lực từ những lần “giải toả” của lực lượng công an khu vực, mặc dù đã có nhiều người, nhiều hộ đã bỏ hoạt động KTVH trong nội thành, nhưng sau vài tháng họ lại tìm đến các tuyến đường chính ở ngoại thành để tiếp tục “hàng nghề”. Phải chăng đó cũng “cái nghiệp”, “cái nghề” chính yếu để họ tồn tại chăng? Nguyên nhân gắn bó với hoạt động KTVH có rất nhiều, mỗi người một lý do, một hoàn cảnh, nhưng cũng cần thấy rằng, hiện nay do nhu cầu cầu và thói quen mua hàng của người dân ở khu vực này cũng rất lớn. Thực vậy, ở TP Hồ Chí Minh hiện vẫn có hàng nghìn người làm việc với mức thu nhập quá thấp (sau khi trừ các chi phí thiết yếu). Hàng trăm nghìn công nhân tại các KCN, KCX, những người cao tuổi hưởng lương hưu, hàng trăm nghìn sinh viên học sinh đang phải ở trọ cần có… bữa ăn, đồ dùng hằng ngày. Và thực tế, loại hình kinh tế phi chính thức, KTVH từ nhiều năm qua đã nhanh chóng đáp ứng nhu cầu mua (bán) nhanh, tiện lợi (tại nhà, tại nơi làm hoặc trên đường đi làm về),… cùng với các loại hàng hóa giá rẻ cho họ. Xung quanh các KCN, KCX và khu nhà trọ của hàng nghìn công nhân lao động là những “mãnh đất màu mỡ” để cho các hoạt động KTVH từ lâu ở thành phố nảy sinh và tồn tại. Cả trong nội và ngoại thành, những buổi “họp chợ chớp nhoáng” với các mặt hàng tiêu dùng đa dạng, giá rẻ (có thể có chất lượng thấp) của những người hoạt động trong lĩnh vực KTVH cung cấp, đã đáp ứng được nhu thiết yếu của đông đảo người dân. Sống ở 1 đô thị khi mà các siêu thị chỉ mở cửa từ sau 7 giờ sáng, ở những nơi không tiện đường, số l ...

Tài liệu được xem nhiều: