Danh mục

Từ quá trình thực hiện giãn dân tại TPHCM: Định lượng các hệ quả xã hội

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 118.81 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghị quyết số 11/NQ-TU (28-4-1997) khẳng định chủ trương của thành phố là phấn đấu đến năm 2010 khu vực nội thành hiện hữu (tám quận trung tâm và bốn quận ven) sẽ phát triển với 3 triệu dân (dân số năm 1997 là 3,54 triệu người), khu nội thành phát triển (các quận mới) phát triển với 2,8 triệu dân, ở ngoại thành duy trì 1,4 triệu dân. Để thực hiện đúng chỉ tiêu qui hoạch giãn dân năm 2010, thành phố trước hết phải tiến hành di dời hơn 10.000 hộ dân tại các khu vực trên...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Từ quá trình thực hiện giãn dân tại TPHCM: Định lượng các hệ quả xã hội ừ quá trình thực hiện giãn dân tại TPHCM: Định lượng các hệ quả xã hội TTCN - Nghị quyết số 11/NQ-TU (28-4-1997) khẳng định chủ trương của thành phố là phấn đấu đến năm 2010 khu vực nội thành hiện hữu (tám quận trung tâm và bốn quận ven) sẽ phát triển với 3 triệu dân (dân số năm 1997 là 3,54 triệu người), khu nội thành phát triển (các quận mới) phát triển với 2,8 triệu dân, ở ngoại thành duy trì 1,4 triệu dân. Để thực hiện đúng chỉ tiêu qui hoạch giãn dân năm 2010, thành phố trước hết phải tiến hành di dời hơn 10.000 hộ dân tại các khu vực trên và ven kênh, ở những khu nhà ổ chuột, hạn chế thấp nhất người nhập cư từ nơi khác đến. Năm 1998, chủ trương giãn dân được điều chỉnh đến năm 2020 dân số thành phố khoảng 10 triệu người, trong đó 12 quận nội thành cũ và mới dự kiến khoảng 6 triệu người, 12 quận nội thành hiện hữu dao động từ 3,6 - 4 triệu người. Từ năm 1996, chủ trương mở rộng nội thành, giãn dân cư từ các quận nội thành cũ ra các quận mới, quận ven và ngoại thành được UBND TP.HCM đặc biệt quan tâm. Chủ trương giãn dân được thực hiện kết hợp với các dự án cải tạo và chỉnh trang khu vực nội thành để di dời, tái định cư, khuyến khích các hộ dân ra bên ngoài; khắc phục tình trạng ách tắc giao thông, giải tỏa nhà ổ chuột ở trên và ven kênh rạch, xây dựng và hiện đại hóa có trọng điểm một số khu vực nội thành hiện hữu. Theo đó, thành phố cũng ưu tiên và khuyến khích các dự án qui hoạch đầu tư xây dựng và phát triển các khu đô thị mới, các khu dân cư kế cận khu công nghiệp tập trung, xây dựng nông thôn ngoại thành cùng với các giải pháp tạo việc làm, nhà ở, cung cấp các tiện ích công cộng thiết yếu..., nhằm hấp dẫn dân c ư (nội thành cũ) đến ngoại vi. Kết quả không nhỏ Gần 10 năm thực hiện, nghị quyết 11/1997 đã đem lại được nhiều kết quả ban đầu đáng ghi nhận. Dân cư cùng với nhà ổ chuột ở trên và ven kênh rạch đã giảm hẳn. Một số công trình dịch vụ công cộng trong nội thành được nâng cấp và xây dựng khá kiên cố. Các dự án như “Qui hoạch cải tạo và xây dựng kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè”, “Xây dựng và nâng cấp đường Khánh Hội”, “Vệ sinh môi trường nước TP”, “Xây dựng đại lộ đông-tây”... đã triển khai để giải tỏa, đền bù và di dời (có tái định cư ) đối với hàng nghìn hộ dân bị tác động trực tiếp. Số lượng cây cầu và tuyến đường ở nội - ngoại thành được nâng cấp và xây dựng mới. Trong hai năm 1998 - 1999, tại các quận mới, quận ven và ngoại thành đã có 132 công trình giáo dục và y tế được xây dựng, nâng cấp. Chỉ sau năm năm thực hiện chủ trương giãn dân tại bốn quận ven, dân số đă tăng lên đến mức khó kiểm soát, đạt 111,3% so với chỉ tiêu qui hoạch của đề án giãn dân năm 2000. Một số đô thị mới như Nam Sài Gòn, Tân Tạo, An Khánh, An Phú, Thủ Thiêm đã và đang triển khai xây dựng. Những khu, cụm công nghiệp cũng đi vào hoạt động cùng các doanh nghiệp tư nhân đến đầu tư kinh doanh đã thu hút gần 1 triệu nhân công nhập cư làm việc; các dự án cung cấp nước sạch, giao thông chính cũng được thực hiện... Tuy vậy, xét trên tổng thể, kết quả của chương trình giãn dân chưa cao, lộ trình giãn dân đến nay chưa rõ ràng, đang bị tác động mạnh mẽ bởi chính sách đầu tư, quá trình tổ chức thực hiện, đặc biệt là những qui luật có tính tất yếu của quá trình đô thị (qui luật di dân, sự quần cư, quá trình hội nhập xã hội của cư dân mới...) chưa được nhận thức đúng mức. Với người dân thành phố, kể cả người không hoặc đang bị di chuyển chỗ ở (do giãn dân-giải tỏa di dời) đều rất kỳ vọng vào kết quả thực hiện của chủ trương giãn dân. Một kết quả đang được mong đợi nhiều nhất có lẽ là một thành phố không còn kẹt xe, không quá ô nhiễm, dễ kiếm việc làm, có nhà ở, nếp sống văn minh và giàu bản sắc văn hóa (giống mục tiêu giãn dân). Thật vậy, trong một thời gian dài người dân thành phố đã chứng kiến và chịu đựng quá nhiều rủi ro và bệnh tật do môi trường ô nhiễm ở các khu vực nội thành cũ gây nên (có khi họ là nguyên nhân). Các hệ quả xã hội đang nảy sinh Thực tế đến nay sự dịch chuyển dân cư theo chủ trương giãn dân từ nội thành cũ ra bên ngoài chủ yếu vẫn mang tính tự phát. Cùng với dân nhập cư, dân cư tăng lên tại các quận mới, quận ven và huyện ngoại thành cũng rất tự nhiên, hiện nay là không thể kiểm soát. Nhiều gia đình thuộc diện giải tỏa, di dời ở các dự án nâng cấp - chỉnh trang đô thị (kết hợp giãn dân) đáng lẽ phải được tái định cư tại những khu ở có điều kiện sống tốt hơn hoặc ít nhất là bằng nơi ở cũ tại các quận mới và ven, nhưng phần lớn (cả chục nghìn hộ) phải tự tùy nghi di tản. V iệc tìm kiếm vị trí cư trú hiện nay của những người đã di dời chỗ ở do bị tác động của các dự án đã triển khai thuộc khu vực nội thành (phục vụ đề án giãn dân) với số lượng 1/100 trong tổng số hộ di chuyển là chuyện không phải dễ. Vị trí quần cư, nơi mà đa số hộ gia đình bị di dời đã nhận tiền đền bù sẽ đến tái định cư (xây dựng cuộc sống mới), không một đơn vị chức năng nào ...

Tài liệu được xem nhiều: