Danh mục

IRAQ HÁT KHÚC MARSEILLAISE

Số trang: 38      Loại file: pdf      Dung lượng: 216.17 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Liên minh Ả Rập thành lập ngày 14-2-1958, đúng năm tháng sau, không sai một ngày, nó tan rã vì cuộc cách mạng 14-7. Ngày 14-7.1789 là ngày phát khởi cuộc cách mạng để lật đổ giòng Bourbon ở Pháp. Các nhà cách mạng Iraq cũng lựa ngày đó để lật đổ giòng Hachémite. Và ngộ nghĩnh nhất là khi chiếm được đài phát thanh Bagdad rồi, quân đội lraq cho phát thanh suất ngày 14-7 bản quốc thiều Marseillaise của Pháp: Allons enfants de la Patrie, Le jour de goire est arrivé... Có kẻ lại quá cao hứng, hét...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
IRAQ HÁT KHÚC MARSEILLAISE IRAQ HÁT KHÚC MARSEILLAISEĐỜI SỐNG NHÂN DÂN IRAQLiên minh Ả Rập thành lập ngày 14-2-1958, đúng năm tháng sau, không saimột ngày, nó tan rã vì cuộc cách mạng 14-7. Ngày 14-7.1789 là ngày phátkhởi cuộc cách mạng để lật đổ giòng Bourbon ở Pháp. Các nhà cách mạngIraq cũng lựa ngày đó để lật đổ giòng Hachémite. Và ngộ nghĩnh nhất là khichiếm được đài phát thanh Bagdad rồi, quân đội lraq cho phát thanh suấtngày 14-7 bản quốc thiều Marseillaise của Pháp:Allons enfants de la Patrie,Le jour de goire est arrivé...Có kẻ lại quá cao hứng, hét tướng lên: Vive De Gaulle! mới là quái gở! DeGaulle có nhúng tay gì vào vụ này đâu. Chỉ tại có nhiều thanh niên trongphong trào cách mạng đã được du học ở Paris, thích cuộc cách mạng Pháp,oán triều đại Hachémite như dân Pháp đã oán triều đại Bourbon nên lựakhúc Marseillaise làm tiến quân ca. Chỉ vì giòng Hachémite mà ở giữa thếkỷ XX, dân chúng Iraq còn lầm than, điêu đứng hơn dân chúng Pháp giữathế kỷ XVIII.Mà đâu phải là Allah đầy ải họ. Hơn hết cả các dân tộc khác trên bán đảo ẢRập, họ có nhiều tài nguyên nhất: Có rừng núi, đồng cỏ, nhiều ruộng cày,nhiều sông rạch, lại có nhiều mỏ dầu nữa. Nền kinh tế của họ quân bìnhnhất. Phong cảnh đẹp mê hồn, tới nỗi thánh kinh đã đặt vườn E den ở lưuvực hai con sông Tigre và Euphrate của họ. Mỗi năm có đủ bốn mùa: Mùaxuân trời trong, nắng ấm, dưới đất cây cỏ trổ hoa tưng bừng đủ các loại, đủcác màu; trên trời chim và bướm ở đâu bay về từng đám, cánh lông rực rỡ,tiếng hót ríu rít, y như mở một cuộc hội để đón các thiên thần vậy. Cảnhcàng đẹp bao nhiêu thì nỗi lầm than của dân chúng càng nổi bật bấy nhiêu.Đời sống của họ vẫn như ở thời trung cổ: Vẫn những cái chòi mái bằng lá,vách bằng sậy (xứ đó rất nhiều sậy) cất trên đất sét nện, chỉ có mỗi mộtphòng vừa là chỗ ăn, chỗ ngủ, chỗ tiếp khách, chỗ nấu nướng, ăn thì ăn độn,bữa đủ bữa thiếu, uống thì có nước sông, và rận, rệp thì lúc nhúc, tới nỗi cókẻ phải bảo: Chính phủ mà không diệt được rận, rệp thì rận, rệp sẽ tiêu diệtchính phủ.Các sử gia thời cổ đều khen miền Mésopotamiè, tức Iraq, đất cát phì nhiêu,nuôi được ba chục triệu người. Hiện nay người ta còn thấy di tích nhiều conkênh cũ và đoán rằng có việc dẫn thủy nhập điền thời cổ phát triển lắm.Những kênh đó cạn từ thời nào, ruộng bỏ hoang từ thời nào, chúng tôi khôngbiết đích xác, chỉ biết năm 1957 Iraq không nuôi nổi sáu triệu nạn dân vì tổchức xã hội rất lạc hậu.Theo các nhà chuyên môn, ở Iraq có thể trồng trọt được 12 triệu héc-ta, nhưvậy là nhiều lắm so với Ai Cập, vì Ai Cập chỉ có 3 triệu héc-ta để nuôi 24triệu dân. Nhưng trước cuộc cách mạng năm 1958, thực sự chỉ có 2 triệurưỡi héc-ta là trồng trọt (khoảng 1/5 còn 4/5 bỏ hoang); mà theo tục hưucanh (ruộng cứ làm một năm lại cho nghỉ một năm), thì 2.500.000 héc-ta đócũng chỉ bằng 1.250.000 héc-ta ở Việt Nam, như vây không đủ nuôi6.500.000 dân. Cho nên dân chúng gần như bị nạn đói kinh niên. Đi khắpđồng quê Iraq, đâu đâu cũng thấy một cảnh rất buồn tẻ: rất ít vườn tược,nhiều ruộng bỏ hoang, dân chúng thờ ơ, mệt nhọc, không có tinh thần phấnkhởi.Hỏi nguyên do tại đâu thì mọi người đều đồng thanh đáp rằng tại phong kiếnvà thực dân gây nên. Trước khi Anh chiếm Iraq, đất cát thuộc về nhà vua,triều đình chia từng lô lớn cho các bộ tộc mướn cày cấy để đóng thuế; thànhthử không có chủ đất tá điền, chỉ có những cộng đồng canh tác.Từ năm 1932, người Anh thay đổi hẳn chế độ đó, cho các bộ tộc làm chủvĩnh viễn những đất mà triều đình đã cho mướn; mà điều này mới tai hạinhất, quyền tư hữu đó không phải là ban cho toàn thể bộ tộc, mà cho ngườiđại diện cheikh, tức như tộc trưởng (đạo luật chia đất năm 1932).Bon cheikh này bỗng nhiên thành lãnh chúa, còn nông dân trước kia tự do,bây giờ thành nông nô, sướng khổ, no đói đều nhờ cheikh cả. Sau đó còn cóvụ chia đất công nữa; nhà cầm quyền muốn chia cho ai tùy ý, không có quytắc gì nhất đinh. Và chỉ bắt đóng một thứ thuế tượng trưng, không nói là chohẳn, mà nói là cho mướn vĩnh viễn. Năm 1954, người ta đạc điền và đạc tớiđâu là các nhà có quyền thế trong mỗi miền ghi ngay tên mình, tên vợ con,anh em mình vào địa bộ (y như ở Việt Nam thời Pháp thuộc ở Nam Kì), vàbỗng nhiên thành chủ nhân một khoảnh đất mênh mông. Hậu quả của vụ đólà 268 địa chủ chiếm hết 73% đất đai, 27% còn lại thuộc về 25.000 địa chủkhác, tính ra mỗi địa chủ này chỉ được từ 1 đến 5 héc-ta.Có chừng mươi địa chủ lớn nhất, chiếm kẻ 280.000 héc-ta, kẻ 150.000 héc-ta, ít nhất cũng là 100.000 héc-ta. Ở phương bắc, có những lãnh chúa làmchủ 30, 40 làng, y như những ông vua nhỏ.Không những vậy, sau đạo luật chia đất năm 1932, người Anh còn cho ramột đạo luật nữa về bổn phận và nghĩa vụ của nông dân, để cột nông dân vớichủ điền: Nông dân nào thiếu nợ chủ điền thì không được phép bỏ chủ điềnmà đi làm chỗ khác. Thực không khác chế độ nông nô thời Trung cổ châuÂu ...

Tài liệu được xem nhiều: