Thông tin tài liệu:
Hình 4.32 Các ghi chú trên hình 4.32 mang ý nghĩa sau: 1- mép mạn giả; 2- thanh gia cường dọc; 3- mạn giả; 4- cửa luồn dây; 5- mã gia cường đứng. Thiết kế mạn giả còn lưu ý đến điều này, cần bố trí chỗ cần cho xếp thang mạn gọi bằng tiếng Hà lan trap trong thời gian tàu thực thi công việc trên biển. Khoảng cách cần lấn vào của be 350mm, chiều dài khoảng 8 – 10m. Thiết kế mạn giả khu vực này trên tàu đã đóng có dạng tại hình 4.33.
...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kết cấu tàu thủy tập 1 part 10
Hình 4.32
Các ghi chú trên hình 4.32 mang ý nghĩa sau: 1- mép mạn giả; 2- thanh gia cường dọc; 3- mạn giả;
4- cửa luồn dây; 5- mã gia cường đứng.
Thiết kế mạn
giả còn lưu ý đến
điều này, cần bố trí
chỗ cần cho xếp
thang mạn gọi bằng
tiếng Hà lan trap
trong thời gian tàu
thực thi công việc
trên biển. Khoảng
cách cần lấn vào của
be 350mm, chiều
dài khoảng 8 – 10m.
Thiết kế mạn giả
khu vực này trên tàu
đã đóng có dạng tại
hình 4.33.
Hình 4.33
208
Lan can, tay vịn trên boong thời tiết làm đúng chức năng của mạn giả, tại những nơi không bố trí
mạn giả. Từ chuyên ngành gọi đây là guard rail hoặc life rail. Lan can tàu có chiều cao tối thiểu 1,20m
dùng cho các tàu đi biển. Tay vịn và các cọc đứng, đỡ lan can làm bằng thép ống thường bằng thép mạ
kẽm. Chân các cọc đứng liên kết với boong qua bích và bulông. Thang ngang lan can làm bằng thép ống
hoặc thép hình. Khoảng cách giữa các thang ngang không lớn hơn 230mm. Trong nhiều trường hợp thay
vì thép ống người ta dùng xích căng chùng làm chức năng hàng rào cản.
Hình 4.34 trình bày thiết kế lan can trên tàu đi biển, các cọc và thanh ngang đều làm từ thép ống.
Kết cấu đáng quan tâm tại đây là “cửa ra vào” trên lan can. Cụm kết cấu gồm hai cọc đứng, giữa hình,
cùng các thanh ngang trên đó dễ dàng tháo khỏi hàng rào cản để làm lối đi. Các cơ cấu giúp tháo dỡ
trình bày trên cùng hình.
Hình 4.34. Lan can tàu
209
CHƯƠNG 5
KẾT CẤU BÁNH LÁI, BỆ MÁY, ỐNG KHÓI
1. Bánh lái
Trong phần tìm hiểu kết cấu vòm lái, chúng ta có dịp làm quen kết cấu lô lái và các chi tiết liên
quan đỡ trục quay bánh lái. Thực ra đây là cả một cụm các kết cấu quan hệ với nhau rất khăng khít, liên
quan các chi tiết đỡ trục chân vịt, giữ trục bánh lái. Bản thân bánh lái là chi tiết quan trọng trong cụm.
Các chi tiết của cụm thiết bị đang nêu có thể hình dung qua hai hình sau đây. Hình 5.1 trình bày các chi
tiết kết cấu hàn cụm chi tiết này, trong đó bản thân lô lái cùng “quả táo” với gối đỡ trục chân vịt đã đề
cập tại chương hai nằm phía trái hình. Phía bên phải hình, trình bày bộ phận mà chúng ta quan tâm tại
phần này, bánh lái, trục bánh lái, gối đỡ dưới gối đỡ trên.
Hình 5.1. Kết cấu sống đuôi và bánh lái
Các ghi chú trên hình có ý nghĩa: 1- gối đỡ trên (top dudgeon); 2- mấu liên kết (rib); 3- thân trên
sống đuôi (crown); 4- gối trục chân vịt (boss); 5- trụ chân vịt (propeller post); 6- gót ky (heel piece); 7- ky
lái (sole piece); 8- gối dưới (bottom gudgeon); 9- trụ lái (rudder post); 10- trục lái (rudder stock); 11- bích
nối (flange); 12- bu lông nối (bolt); 13- lỗ treo bánh lái (lifting hole); 14- tôn bánh lái (rudder plate); 15-
xương gia cương bánh lái (rudder frame); 16- gân gia cường bánh lái (arm); 17- chốt bánh lái (pintle).
Hình 5.2 trình bày cách chi tiết chúng ta quan tâm trên tàu kiểu mới, tuy đã xuất hiện từ những năm
giữa thế kỷ XX: bánh lái treo, hai ổ đỡ. “Chân” tức phần kéo dài từ ki chính nhằm đỡ trục bánh lái không
còn cần thiết tại đây, thay vào đó cụm kết cấu đỡ ổ trục với các chi tiết đúc bằng thép, nằm bên trái hình
làm nhiệm vụ chứa hai ổ đỡ quan trọng trục lái. Bánh lái treo nửa cân bằng thể hiện bằng nét chấm gạch
tại hình, nằm sau chân vịt tàu cũng bằng nét chấm gạch.
210
Hình 5.2. Bố trí bánh lái treo
Bánh lái tàu đặt sau chân vịt , được giữ thẳng đứng nhờ trục lái. Bánh lái phải quay được sanh
hai phía của mạn, góc quay lớn nhất bắt buộc cho tàu biển 35°, sang trái và sang phải. Các tàu chạy
sông, tàu cần có tính quay trở cao bánh lái có góc quay lớn nhất đạt đến 80° – 90° .
Các kiểu bánh lái mặt cắt ngang dạng frofil cánh máy bay, sử dụng trên tàu biển gồm: kiểu Oertz,
bánh lái Simplex, bánh lái treo, bánh lái Mariner vv… Ngoài các bánh lái vừa kể chúng ta còn dùng
bánh lái “ chủ động”, trong bánh lái có đặt thiết bị đẩy riêng cho bánh lái cho phép quay bánh lái theo
yêu cầu người điều khiển.
Profile bánh lái có nguồn gốc từ profile cánh máy bay. Thông dụng nhất trong ngành tàu là pforfile
Gö 539 của bể thử Göttingen với chiều dày tương đối t/b = 0,2 và profile NASA 0018.
Bố trí chung bánh lái kiểu Simplex được giới thiệu tại hình 5.3. Trong hệ thống này, trục quay
bánh lái nằm lọt trong lòng bánh lái, đầu trên trục bắt vào vòm lái tàu, đầu dưới quay trong ổ đỡ dưới,
tại gót lái của tàu. Cụm chi tiết này vẽ bằng nét mờ trên hình 3, sẽ được nhắc lại phần sau. Tay quay bánh
lái thường khá lớn, bắt chặt bằng bulon với bánh lái tại mặt trên bánh lái, đầu còn lại tay quay quay liên
hệ với máy lái, chịu sự điều khiển của máy lái.
...