Thông tin tài liệu:
Việc bố trí các thùng container như sau: phần giữa tàu người ta sắp container thành 8 hàng ngang, trên miệng hầm hàng bố trí mười hàng container, theo chiều dọc và chiều cao tiến hành bố trí các hàng và chồng theo sơ đồ trên hình 2.54. Một điều hết sức lưu ý trong quá trình bố trí thùng là kết cấu không gian vùng mũi nhằm vừa đảm bảo bố trí hợp lý thùng trong hầm vừa đủ độ bền kết cấu cho không gian vốn chật hẹp và chịu tải trọng làm việc nặng nề đó, về...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kết cấu tàu thủy tập 1 part 470 Hình 2.54. Bố trí chung tàu container 1700TEU Hình 2.54. Bố trí thùng tàu container 1700TEU71 Việc bố trí các thùng container như sau: phần giữa tàu người ta sắp container thành 8 hàng ngang,trên miệng hầm hàng bố trí mười hàng container, theo chiều dọc và chiều cao tiến hành bố trí các hàng vàchồng theo sơ đồ trên hình 2.54. Một điều hết sức lưu ý trong quá trình bố trí thùng là kết cấu không gianvùng mũi nhằm vừa đảm bảo bố trí hợp lý thùng trong hầm vừa đủ độ bền kết cấu cho không gian vốnchật hẹp và chịu tải trọng làm việc nặng nề đó, về vấn đề này, bạn đọc có thể tham khảo được nhiều điềutừ sơ đồ bố trí thùng ở hình trên. Mặt cắt ngang điển hình của tàu container được giới thiệu tại hình 2.55 tiếp theo, mặt cắt ngangkhỏe vùng giữa tàu thể hiện trên hình 2.55a, mặt cắt ngang thường vùng giữa tàu thể hiện trên hình 2.55b. Hình 2.54a. Mặt cắt ngang khung sườn khỏe tàu container 564TEU Đáy đôi tàu cao 1400mm. Mạn đôi của tàu có chiều rộng mỗi mạn tại vùng giữa tàu là 1600mm.Kết cấu đáy, boong, mạn trong tàu theo hệ thống dọc, mạn ngoài theo hệ thống ngang. Chiều dày tôn từvỏ ngoài 11mm, tôn đáy trong 16mm và tôn mạn trong 13mm. Các dầm dọc boong sử dụng thép bản200x20, còn dầm dọc đáy, dầm dọc mạn trong và sườn mạn sử dụng thép mỏ lần lượt có quy cách chomạn ngoài 180x9; mạn trong 180x8; đáy trong 260x10; đáy ngoài 220x10. Thanh dẫn hướng đặt đứngbằng thép góc 130 x 130 x 12 (mm).72 Hình 2.54b. Mặt cắt ngang khung sườn thường tàu container 564TEU Tiếp theo, trên hình 2.55 bạn đọc có thể tham khảo mặt cắt ngang của cùng tàu kể trên tại vùng mũi,ở đây, một lần nữa lưu ý về bố trí không gian xếp thùng trong hầm và phương án kết cấu cho vùng này. Tàu chở hàng thùng phát triển không chỉ số lượng mà cả về độ lớn trong vài mươi năm gần đây.Cùng với sự đổi thay kích cỡ, kết cấu tàu cũng phải đổi thay nhằm đảm bảo độ bền tàu miệng hầm hàngmở quá rộng, trong khi vẫn phải đảm bảo thao tác xếp thùng tiến hành nhanh nhất nhằm giải phónghàng ngàn thùng trong thời gian rất hạn chế. Hiện nay đội tàu container chiếm khoảng 14% về trọng tải và 18% về số tàu của đội tàu buôn thếgiới. Phần lớn tàu container được đóng và khai thác từ những năm 70 của thế kỷ XX, sức chứa trung bìnhcủa tàu container tà 1200 TEU (1989); 1500 TEU (1993) và vẫn có xu hướng tăng lên. Tàu container đãbước sang thế hệ thứ 4 và sức chở ngày càng lớn, cụ thể với tàu trên hình 2.53 đã được đóng tại Việt Namnăm 2005 với sức chở 1700TEU. 7374 Hình 2.55. Mặt cắt ngang khung sườn vùng mũi tàu container 564TEU 5.5. Tàu chở khí hóa lỏng (Liquid Gas Carriers) Tàu chở khí hoá lỏng thuộc nhóm tàu vận tải chở khí hóa lỏng trong tàu, thực chất là các bình chịuáp lực cao trong điều kiện nhiệt độ hạ thấp đến mức cần thiết. Ngoài tàu chở khí gốc dầu còn có tàuchở khí tự nhiên. Kiểu thứ nhất dành cho tàu chở khí từ công nghiệp dầu khí, sau hóa lỏng (liquefiedpetroleum gas – LPG), kiểu sau dành chở khí tự nhiên hóa lỏng (liquefied natural gas – LNG). LPG là tên gọi có xuất xứ từ công nghiệp dầu – khí, chỉ chung cho nhóm khí trong công nghiệpnày là hydrocarbon , chủ yếu gồm propane và butane và cả khí pha trộn của chúng. Khí này có thể hóalỏng và vận chuyển chuyển theo một trong ba cách: • Dưới áp suất thường và nhiệt độ môi trường, • Làm lạnh hoàn toàn đến nhiệt độ sôi, từ -30°C đến -48°C, • Làm lạnh bán phần đến nhiệt độ xác định và áp lực cao. Một số khí khác như ammonia, propylen vàethylene cũng có thể chở bằng tàu tàu chở khí kiểunày. LNG là khí tự nhiên được loại bỏ lưu huỳnh và carbon dioxide. Cần thiết làm lạnh khí đến nhiệt độsôi của nó, vào khoảng -165°C. Áp lực giữ khí hoá lỏng này có thể chỉ bằng hoặc gần như áp suất khíquyển. Trong nhóm này vận chuyển methane lỏng đòi hỏi phải thỏa mãn những yêu cầu riêng của nó.Đặc tính của methane như chúng ta đã biết, có áp lực giới hạn 45,6 kG/cm2 và nhiệt độ giới hạn –82,5°C,điều này có nghĩa methane chỉ có thể hóa lỏng dưới áp lực đủ lớn, nhiệt độ vô cùng thấp. Tàu chở khí kiểu đầu được viết bằng tiếng Anh Liquefied Petroleum Gas Ship được phân loại theokết cấu các khoang chở hàng. • Khoang hàng chịu áp lực (fully pressured tanks). Dung tích các tàu này thường không lớnhơn 2.000m3 . Tàu dùng chở chủ yếu propane, butane chứa trong các bình trụ , từ hai đến 6 bình, đặthoàn toàn hoặc không hoàn toàn dưới boong. Các bình này được thiết kế để chịu áp lực đến 17,5 kG/cm2.Áp lực này gần trùng với với áp lực bốc hơi của propane tại nhiệt độ 45°C. • Khoang hàng nén bán phần (một nửa) hoặc làm lạnh bán phần (semi-pressured or semi-refrigerated tanks). Dung tích tàu nhóm này lên đến 5.000m3. Các bình trên tàu được thiết kế chịu đượcnhiệt độ -5°C ...