Danh mục

Khám mũi – xoang (Kỳ 2)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 227.37 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Cách soi: Bệnh nhân: ngồi thẳng, lưng rời khỏi tựa ghế.Thầy thuốc: tay trái cầm đè lưỡi như khi khám họng, tay phải cầm gương soi. Trước hết hơ nhanh gương trên ngọn lửa đèn cồn (kiểm tra gương không quá nóng) để hơi nước không đọng làm mờ gương. Đưa nhẹ gương vào họng, lách qua lưỡi gà rồi quay mặt gương chếch lên trên, cán gương nằm ngang. Khi đưa gương vào bảo bệnh nhân thở bằng mũi để vòm không bị co hẹp lại, nếu có nước bọt che vòm bảo bệnh nhân nói a, a,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khám mũi – xoang (Kỳ 2) Khám mũi – xoang (Kỳ 2) Cách soi: Bệnh nhân: ngồi thẳng, lưng rời khỏi tựa ghế. Thầy thuốc: tay trái cầm đè lưỡi như khi khám họng, tay phải cầm gươngsoi. Trước hết hơ nhanh gương trên ngọn lửa đèn cồn (kiểm tra gương không quánóng) để hơi nước không đọng làm mờ gương. Đưa nhẹ gương vào họng, lách qualưỡi gà rồi quay mặt gương chếch lên trên, cán gương nằm ngang. Khi đưa gươngvào bảo bệnh nhân thở bằng mũi để vòm không bị co hẹp lại, nếu có nước bọt chevòm bảo bệnh nhân nói a, a, a... làm mất đi. Lưu ý: trong khi soi cố tránh không để gương chạm vào thành họng gâyphản xạ buồn nôn. Nếu bệnh nhân có phản xạ nhiều, nên gây tê vùng họng lưỡibằng xylocain 3 - 6% (phun hoặc bôi). Ngoài ra cần kiểm tra vòm họng bằng cách dùng ngón tay trỏ sờ vòm đểphát hiện các khối u, V.A. Nên nhớ chỉ được sờ vòm họng khi không có viêm cấptính ở mũi họng. 3. Khám thực thể xoang. - Nhìn: mặt trước xoang, hố nanh, rãnh mũi má, rãnh mũi mắt, gốcmũi, góc trong hốc mắt xem có bị nề, phồng, biến đổi không? - Tìm điểm đau: ấn nhẹ ngón tay cái lên vùng cần tìm điểm đau. Điểm đau ở hố nanh (xoang hàm): vùng má, cạnh cánh mũi. Điểm đau Grun - wald (xoang sàng trước): vùng góc trên trong hốc mắt. Điểm đau Ewing (xoang trán): 1/3 trong cung lông mày. Cần so sánh hai bên để tìm cảm giác đau chính xác. - Soi bóng mờ: dùng đèn soi bóng mờ (như đèn pin) thực hiện trongbuồng tối, để bệnh nhân ngậm đèn trong miệng, hướng nguồn sáng ra phía mặt.Với xoang hàm bình thường, nguồn sáng đi qua tao thành bóng sáng hình tam giácở dưới ổ mắt. Để nguồn sáng áp vào thành trên ổ mắt hướng nguồn sáng lên trán,nếu xoang trán bình thường sẽ có một bóng sáng ở vùng trong cung lông mày.Phương pháp soi bóng mờ không cho kết quả chính xác, rõ ràng nên hiện nay ítđược áp dụng. - Chọc dò xoang hàm: xoang hàm có lỗ thông với hốc mũỉ khe giữa,dùng một kim chọc qua vách xương ngăn mũi xoang ở khe dưới để vào xoanghàm. Qua đó có thể hút để quan sát chất ứ đọng trong xoang, thử tìm vi khuẩnhoặc tế bào học. Cũng có thể bơm nước ấm hay dung dịch nước muối sinh lý vàoxoang để nước chảy ra qua lỗ mũi xoang ở khe giữa. Trong trường hợp viêmxoang thấy có mủ hay bã đậu chảy ra theo nước . Phương pháp này đơn giản, cho chẩn đoán xác định lại kết hợp với điều trịnên thường được dùng. Cần nhớ rằng không được tiến hành khi đang trong tìnhtrạng viêm cấp tính. 4. Khám chức năng. - Khám chức năng thở: đơn giản nhất là cho thở trên mặt gương.Dùng gương Gladen là một tấm kim loại mạ kền sáng bóng có các vạch hình nửavòng tròn đồng tâm và một vạch thẳng chia đôi đúng giữa. Để gương khít trướcmũi bệnh nhân, vạch thẳng tương ứng với tiểu trụ, gương nằm ngang. Khi thở racó hơi nước sẽ làm mờ gương. Theo mức độ gương bị mờ để đánh giá chức năngthở. Nếu gương không bị mờ là mũi bị tịt hoàn toàn. Cũng có thể dùng gương soithường để thử. Người ta còn dùng khí mũi kế (Rhinometrie) để đo áp lực thở của từng hốcmũi được cụ thể hơn hoặc có thể ghi lại trên giấy để có bằng chứng. - Khám chức năng ngửi: thường dùng ngửi kế bằng cách đưa vào từnghốc mũi 1 khối lượng không khí có nồng độ nhất định của 1 chất có mùi để tìmngưỡng ngửi của từng chất. Thực hiện với một số chất có mùi khác nhau và sosánh với các ngưỡng bình thường để có nhận định về mức độ ngửi của ngườibệnh. Cần phân biệt các chất có mùi và chất kích thích như ête, amôniac... cónhững người còn biết kích thích nhưng có thể mất ngửi. Thường dùng các chất cómùi quen thuộc như: mùi thơm, chua, thức ăn. 5. X- quang: Hai tư thế cơ bản là: Tư thế Blondeau (mũi - cằm phim). Bình thường: - Hốc mũi có khoảng sáng của khe thở rõ. - Các xoang hàm, trán, bướm sáng đều (so với ổ mắt), các thànhxoang đều rõ. Bệnh lý: - Khe thở của hốc mũi bị mất, hẹp lại do khối u hay cuốn mũi quáphát. - Các xoang hàm hay trán bị mờ đều do niêm mạc phù nề, mờ đặc domủ trong xoang, bờ dày, không đều do niêm mạc dày, thoái hoá. Thành xương cóchỗ bị mất, không rõ: nghi u ác tính. Tư thế Hirtz (cằm - đỉnh phim). Bình thường: các xoang sàng trước, sàng sau, xoang bướm sáng đều,các vách ngăn của các tế bào sàng rõ, các thành xoang đều rõ. Bệnh lý: trên phim Hirtz các vách ngăn sàng không rõ hay bị mất đi, các tếbào sàng mờ đều hay mờ đặc do niêm mác dày hoặc có mủ. Khi có hình ảnh pháhuỷ xương, các thành xoang có chỗ bị mất, không rõ: nghi ác tính. - Khi nghi ngờ có dị vật trong xoang hàm và xoang trán: cần chụpthêm tư thế sọ nghiêng để xác định vị trí cụ thể. - Khi nghi ngờ có khối u, pôlip trong xoang hàm: bơm chất cản qua ...

Tài liệu được xem nhiều: