Danh mục

Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ

Số trang: 7      Loại file: doc      Dung lượng: 242.50 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Lãnh thổ của dân tộc Việt thời kỳ này, trong sự cai quản của chính quyền trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng Hà Tĩnh hiện nay, thỉnh thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc Giao Châu) tiến xuống phía nam đánh Chiêm Thành và đưa thêm vùng đất từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳThời Hồng BàngMột số sử liệu cho rằng vào đầu thời kỳ Hồng Bàng, bộ tộc Việt cólãnh thổ rộng lớn từ phía nam sông Dương Tử (Trung Quốc) đến vùngThanh Hóa.Văn LangNhà nước Văn Lang của bộ tộc Lạc Việt hình thành trên vùng đồngbằng sông Hồng, đồng bằng sông Mã và đồng bằng Sông Lam.Âu LạcThục Phán sau khi chiếm được Văn Lang đã sát nhập vào đất củamình, nước Âu Lạc có lãnh thổ từ phía nam sông Tả Giang (QuảngTây-Trung Quốc) kéo xuống dãy Hoành Sơn (Hà Tĩnh)Thời Bắc thuộcLãnh thổ của dân tộc Việt thời kỳ này, trong sự cai quản của chínhquyền trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùngHà Tĩnh hiện nay, thỉnh thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc GiaoChâu) tiến xuống phía nam đánh Chiêm Thành và đưa thêm vùng đấttừ đèo Ngang đến đèo Hải Vân vào cai trị nhưng không giữ được lâuvì sau đó Chiêm Thành thường lấy lại được. Ranh giới lãnh thổ vềphía nam đôi khi được nhắc trong sử liệu là một cột mốc bằng đồngdựng lên bởi Mã Viện sau khi chinh phạt sự nổi dậy của Hai BàTrưng, còn gọi là cột đồng Mã Viện.Thời phong kiến tự chủLãnh thổ Đại Việt khoảng năm 1010 dưới thời nhà LýSau khi Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ năm 905, Việt Nam bắtđầu thời kỳ độc lập tự chủ. Việt Nam chính thức vào kỷ nguyên độclập từ khi Ngô Quyền đánh bại nhà Nam Hán vào năm 938. Năm 968,Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu trở lại sau hơn 400 năm, là Đại CồViệt, sau đó Lý Thánh Tông đổi tên nước là Đại Việt năm 1054.Lãnh thổ Việt Nam thời kỳ đầu độc lập bao gồm khu vực Bắc Bộ và3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, tương đương với lãnh thổ cũnước Văn Lang của các vua HùngSáp nhập Tây-BắcNăm 1014, tướng nước Đại Lý là Đoàn Kính Chí đem quân vào chiếmđóng châu Vị Long và châu Đô Kim (nay thuộc Tuyên Quang), vua LýThái Tổ sai con là Dực Thánh Vương đi đánh dẹp, quân Đại Lý đạibại, nhân cơ hội đó nhà Lý sát nhập luôn khu vực ngày nay là HàGiang vào Đại Việt.Năm 1159, nhân khi nước Đại Lý suy yếu, vua Lý Anh Tông và TôHiến Thành đã tiến hành thu phục vùng đất của các tù trưởng dân tộcthiểu số người Thái ở bắc Yên Bái, nam Lào Cai vào lãnh thổ ĐạiViệt.Năm 1478, vua Lê Thánh Tông, sau khi thu phục tiểu vương quốc BồnMan của người Thái đã sát nhập vùng Sơn La, các huyện phía tâyThanh Hóa, Nghệ An và tỉnh Hủa Phăn của Lào ngày nay vào đất ĐạiViệt.Quá trình Nam tiếnCác triều đại phong kiến của Việt Nam liên tục mở rộng lãnh thổxuống phía Nam. • Nhà LýNăm 1069, Lý Thánh Tông nam chinh đánh Chiêm Thành và bắt đượcvua Chiêm là Chế Củ (Jaya Rudravarman) về Thăng Long. Để đượctha vua Chiêm đã cắt vùng đất phía bắc Chiêm Thành gồm ba châu BốChính, Ma Linh, Địa Lý cho Đại Việt, phần đất mà ngày nay là tỉnhQuảng Bình và bắc Quảng Trị. • Nhà TrầnNăm 1306 vua Chế Mân (Jaya Simhavarman) của Chiêm Thành cắtđất hai châu Ô và Rí cho vua Trần Anh Tông để làm sính lễ cưới côngchúa Huyền Trân của Đại Việt, vùng đất mà ngày nay là nam QuảngTrị và Thừa Thiên-Huế. Biên giới phía nam của Đại Việt lúc này tiếnđến đèo Hải Vân. • Nhà Hậu LêNăm 1471 vua Lê Thánh Tông đưa 20 vạn quân tiến đánh vào kinh đôVijaya (Bình Định) của Chiêm Thành, kinh đô Vijaya bị thất thủ. LêThánh Tông đã sát nhập vùng đất bắc Chiêm Thành vào Đại Việt(ngày nay là 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Phần đấtcòn lại của Chiêm Thành vua Lê Thánh Tông đã chia làm 3 vươngquốc và giao cho tướng, hoàng thân còn lại của Chiêm Thành trấn giữvà có nghĩa vụ triều cống Đại Việt. Đến năm 1471 lãnh thổ phía namcủa Đại Việt tiến đến đèo Cù Mông (ranh giới giữa Bình Định và PhúYên ngày nay). • Chúa Nguyễn (Đàng Trong)Thời kỳ Trịnh, Nguyễn phân tranh Do áp lực tấn công của các chúaTrịnh ở Đàng Ngoài và nhu cầu đất đai, các chúa Nguyễn đã tiến hànhnhững đợt nam tiến, mở rộng lãnh thổ Đại Việt chưa từng thấy. • Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng tiến chiếm vùng đất của Chiêm Thành mà ngày nay là Phú Yên • Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần tiến chiếm vùng Khánh Hòa của Chiêm Thành • Năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tiến chiếm và chính thức sát nhập phần còn lại của vương quốc Chiêm Thành là Bình Thuận, Ninh Thuận, tuy nhiên chính quyền Đàng Trong vẫn dành cho người Chăm chế độ tự trị ở đây cho đến năm 1832 • Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Sài Gòn lập dinh, chia trấn, bổ nhiệm quan lại chính thức đưa khu vực các tỉnh miền Đông Nam Bộ của Chân Lạp vào lãnh thổ Đàng Trong. • Năm 1708, Mạc Cửu (thương nhân người Hoa) người khai phá vùng đất Hà Tiên, Kiên Giang (của Chân Lạp) xin nội thuộc chúa Nguyễn, chúa Nguyễn phong chức Tổng binh cai quản • Từ năm 1736-1739, Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu) khai phá thêm vùng đất Cà Mau, Bạc Liêu, Cần Thơ (của Chân Lạp) đưa vào lãnh thổ Đàng Trong. • Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm và sát nhập vùng đất ngày nay là Vĩnh Long, Bến Tre • Năm 1756, vua Chân Lạp là ...

Tài liệu được xem nhiều: