Lịch sử dân tộc và một số trận quyết chiến chiến lược: Phần 2
Số trang: 191
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.05 MB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nối tiếp phần 1, phần 2 của cuốn sách "Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc" sẽ tiếp tục giới thiệu đến bạn đọc những nội dung về: chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang năm 1427; chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785; chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm 1789;... Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lịch sử dân tộc và một số trận quyết chiến chiến lược: Phần 2 CHƯƠNG IV CHIẾN THẮNG CHI LĂNG – XƯƠNG GIANG NGÀY 8 THÁNG 10 ĐẾN NGÀY 3 THÁNG 11 NĂM 1427 Đánh trận đầu, sạch sanh kình ngạc, Đánh trận nữa, tan tác chim muôn. Lỗ kiến xoi, đê vỡ phá tung, Gió thổi mạnh, lá khô trút sạch. NGUYỄN TRÃI Bình Ngô đại cáo Đó là khí thế xung trận vang dậy của quân dân ta và thắng lợi oanhliệt, triệt để của trận Chi Lăng – Xương Giang mà Nguyễn Trãi đã ghilại trong Bình Ngô đại cáo. Đó cũng là chiến thắng có ý nghĩa quyếtđịnh, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng do Lê Lợi -Nguyễn Trãi lãnh đạo hồi đầu thế kỷ XV. * ** Sau chiến thắng Tốt Động - Chúc Động, quân địch phải chuyển hẳnsang thế phòng ngự bị động còn quân dân ta thì hoàn toàn giànhquyền chủ động thế tiến công trên các chiến trường toàn quốc. Trước tình hình đó, Vương Thông một mặt âm mưu giảng hòa lậpkế hoãn binh; mặt khác vội vã phái người về nước cầu cứu. Ngày 31-1-1427 (tức ngày 26 tháng chạp năm Bính Ngọ), nhà Minh lại lần nữaquyết định điều quân tiếp viện cho Vương Thông. Lúc lượng viễn chinh này chia làm hai đạo quân cùng kéo sangnước ta: Đạo thứ nhất do thái tử thái bảo An Viễn hầu Liễu Thăng làm tổngbinh, Bảo Định bá Vương Minh làm tá phó tổng binh, đô đốc Thôi Tụlàm hữu tham tướng, tiến theo đường Quảng Tây. Đạo thứ hai do thái phó Kiềm Quốc công Mộc Thạnh làm tổngbinh, Hưng An bá Từ Hanh làm tả phó tổng binh, Tân Ninh bá ĐàmTrung làm hữu phó tổng binh, tiến theo đường Vân Nam. Đạo viện binh của Liễu Thăng điều động quân các vệ Bắc Kinh,Nam Kinh, ty lưu thủ Trung Đô, hộ vệ Vũ Xương, các đô ty Hồ Quảng,Phúc Kiến, Triết Giang và các vệ nam Trực Lệ. Cùng đi theo với đạoquân này, nhà Minh còn phái những quan lại cao cấp rất am hiểu tìnhhình nước ta như công bộ thượng thư Hoàng Phúc, thái tứ thái bảobinh bộ thượng thư Lý Khánh làm tham tán quân vụ. Chúng còn điềuthêm tên Việt gian hữu bố chính sứ Nguyễn Đức Huân giúp việc. Đạo viện binh do Mộc Thạnh chỉ huy điều động quân từ các vệThành Đô, các đô ty Tứ Xuyên, Vân Nam. Cả hai đạo viện binh đó lúc đầu gồm 7 vạn quân. Tháng 4 năm1427, nhà Minh điều động thêm 1.000 quân ở các hộ vệ Vũ Xương,1.200 quân ở hộ vệ Thành Đô, 1 vạn quân tinh nhuệ ở vệ Nam Kinh,33.000 quân từ ty lưu thủ Trung Đô, các đô ty Phúc Kiến, QuảngĐông, Hồ Quảng, Triết Giang, Hà Nam, Sơn Đông. Tất cả trên45.200 quân tăng cường thêm cho hai đạo viện binh Liễu Thăng, MộcThạnh (Những con số trên đây lấy trong Hoàng Minh thực lục đượctrích dẫn trong An Nam sử nghiên cứu của Yamamoto Tatsuro Tokyo1950, q.l, tr. 721-722). Như vậy, tổng số quân chính quy bao gồm bộ binh và kỵ binh tinhnhuệ điều động hầu khắp các tỉnh từ Sơn Đông xuống Quảng Tây, từQuảng Đông sang Tứ Xuyên của nhà Minh tăng viện cho cuộc chiếntranh xâm lược nước ta lần này tối thiểu cũng đến 115.000 tên. Đó làquân chủ lực được chọn lọc, chưa kể số dân phu chuyển vận lươngthực, vũ khí và số thổ binh ở Quảng Đông, Quảng Tây. Nhà Minh saihình bộ thượng thư Phàn Kính đến Quảng Tây và phó đô ngự sử HồDị đến Quảng Đông đôn đốc việc vận chuyển quân lương. Theo sử cũ nước ta, đạo quân của Liễu Thăng gồm 10 vạn quânvà 2 vạn ngựa; đạo quân của Mộc Thạnh gồm 5 vạn quân và 1 vạnngựa (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, t. III, tr. 43). Tổng sốhai đạo quân lên đến 15 vạn. Có lẽ đó là số quân chiến đấu bao gồmquân chính quy và thổ binh mà chưa tính hết số dân phu. Theo LamSơn thực lục thì tồng số quân địch là 20 vạn quân. Con số này có lẽbao gồm cả quân chiến đấu và dân phu. Những tướng cầm đầu hai đạo quân địch đều đã tham gia cuộcchiến tranh xâm lược nước ta trước đây, hoặc là quan chức lâu nămtrong chính quyền đô hộ. Liễu Thăng vốn là tùy tướng của Trương Phụ - kẻ cầm đầu dạoquân xâm lược nước ta năm 1406. Bấy giờ, Liễu Thăng đã đóngquân ở cửa Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên) và đem quân đuổi theoHồ Quý Ly đến cửa biển Kỳ La (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh). Mộc Thạnh, từ năm 1406 đã giữ chức tả phó tổng binh trong đạoquân Trương Phụ. Mộc Thạnh đã chỉ huy trận đánh chiếm thành ĐaBang (Ba Vì, Hà Tây) và đã từng bị nghĩa quân Trần Ngỗi đánh bại ởtrận Bô Cô (trên bờ sông Đáy, Ý Yên, Nam Hà) năm 1408. Hoàng Phúc, năm 1406 cũng theo Trương Phụ làm đốc biện quânlương. Khi nhà Minh đặt ách thống trị lên nước ta, Hoàng Phúc kiêmgiữ hai chức bố chánh và án sát, tổ chức trấn áp phong trào yêunước của nhân dân ta, thực hiện chính sách bóc lột vơ vét của cải vàđồng hóa ráo riết. Hắn nắm vững địa hình, hiểu biết tường tận tìnhhình nước ta. Hai mươi năm nhà Minh thống trị đất nước ta thì HoàngPhúc đã ở đây đến 18 năm (Minh sử, liệt truyện, truyện Hoàng Phúc). Việc điều động viện binh lần này với số quân chiến đấu 15 vạn vànhững tướng dày kinh nghiệm, am hiểu tình hình và quen thuộc chiếntrường nước ta, chứng tỏ nhà Minh vẫn giữ quyết tâm xâm lược,dùng bạo lực hòng tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân d ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lịch sử dân tộc và một số trận quyết chiến chiến lược: Phần 2 CHƯƠNG IV CHIẾN THẮNG CHI LĂNG – XƯƠNG GIANG NGÀY 8 THÁNG 10 ĐẾN NGÀY 3 THÁNG 11 NĂM 1427 Đánh trận đầu, sạch sanh kình ngạc, Đánh trận nữa, tan tác chim muôn. Lỗ kiến xoi, đê vỡ phá tung, Gió thổi mạnh, lá khô trút sạch. NGUYỄN TRÃI Bình Ngô đại cáo Đó là khí thế xung trận vang dậy của quân dân ta và thắng lợi oanhliệt, triệt để của trận Chi Lăng – Xương Giang mà Nguyễn Trãi đã ghilại trong Bình Ngô đại cáo. Đó cũng là chiến thắng có ý nghĩa quyếtđịnh, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng do Lê Lợi -Nguyễn Trãi lãnh đạo hồi đầu thế kỷ XV. * ** Sau chiến thắng Tốt Động - Chúc Động, quân địch phải chuyển hẳnsang thế phòng ngự bị động còn quân dân ta thì hoàn toàn giànhquyền chủ động thế tiến công trên các chiến trường toàn quốc. Trước tình hình đó, Vương Thông một mặt âm mưu giảng hòa lậpkế hoãn binh; mặt khác vội vã phái người về nước cầu cứu. Ngày 31-1-1427 (tức ngày 26 tháng chạp năm Bính Ngọ), nhà Minh lại lần nữaquyết định điều quân tiếp viện cho Vương Thông. Lúc lượng viễn chinh này chia làm hai đạo quân cùng kéo sangnước ta: Đạo thứ nhất do thái tử thái bảo An Viễn hầu Liễu Thăng làm tổngbinh, Bảo Định bá Vương Minh làm tá phó tổng binh, đô đốc Thôi Tụlàm hữu tham tướng, tiến theo đường Quảng Tây. Đạo thứ hai do thái phó Kiềm Quốc công Mộc Thạnh làm tổngbinh, Hưng An bá Từ Hanh làm tả phó tổng binh, Tân Ninh bá ĐàmTrung làm hữu phó tổng binh, tiến theo đường Vân Nam. Đạo viện binh của Liễu Thăng điều động quân các vệ Bắc Kinh,Nam Kinh, ty lưu thủ Trung Đô, hộ vệ Vũ Xương, các đô ty Hồ Quảng,Phúc Kiến, Triết Giang và các vệ nam Trực Lệ. Cùng đi theo với đạoquân này, nhà Minh còn phái những quan lại cao cấp rất am hiểu tìnhhình nước ta như công bộ thượng thư Hoàng Phúc, thái tứ thái bảobinh bộ thượng thư Lý Khánh làm tham tán quân vụ. Chúng còn điềuthêm tên Việt gian hữu bố chính sứ Nguyễn Đức Huân giúp việc. Đạo viện binh do Mộc Thạnh chỉ huy điều động quân từ các vệThành Đô, các đô ty Tứ Xuyên, Vân Nam. Cả hai đạo viện binh đó lúc đầu gồm 7 vạn quân. Tháng 4 năm1427, nhà Minh điều động thêm 1.000 quân ở các hộ vệ Vũ Xương,1.200 quân ở hộ vệ Thành Đô, 1 vạn quân tinh nhuệ ở vệ Nam Kinh,33.000 quân từ ty lưu thủ Trung Đô, các đô ty Phúc Kiến, QuảngĐông, Hồ Quảng, Triết Giang, Hà Nam, Sơn Đông. Tất cả trên45.200 quân tăng cường thêm cho hai đạo viện binh Liễu Thăng, MộcThạnh (Những con số trên đây lấy trong Hoàng Minh thực lục đượctrích dẫn trong An Nam sử nghiên cứu của Yamamoto Tatsuro Tokyo1950, q.l, tr. 721-722). Như vậy, tổng số quân chính quy bao gồm bộ binh và kỵ binh tinhnhuệ điều động hầu khắp các tỉnh từ Sơn Đông xuống Quảng Tây, từQuảng Đông sang Tứ Xuyên của nhà Minh tăng viện cho cuộc chiếntranh xâm lược nước ta lần này tối thiểu cũng đến 115.000 tên. Đó làquân chủ lực được chọn lọc, chưa kể số dân phu chuyển vận lươngthực, vũ khí và số thổ binh ở Quảng Đông, Quảng Tây. Nhà Minh saihình bộ thượng thư Phàn Kính đến Quảng Tây và phó đô ngự sử HồDị đến Quảng Đông đôn đốc việc vận chuyển quân lương. Theo sử cũ nước ta, đạo quân của Liễu Thăng gồm 10 vạn quânvà 2 vạn ngựa; đạo quân của Mộc Thạnh gồm 5 vạn quân và 1 vạnngựa (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, t. III, tr. 43). Tổng sốhai đạo quân lên đến 15 vạn. Có lẽ đó là số quân chiến đấu bao gồmquân chính quy và thổ binh mà chưa tính hết số dân phu. Theo LamSơn thực lục thì tồng số quân địch là 20 vạn quân. Con số này có lẽbao gồm cả quân chiến đấu và dân phu. Những tướng cầm đầu hai đạo quân địch đều đã tham gia cuộcchiến tranh xâm lược nước ta trước đây, hoặc là quan chức lâu nămtrong chính quyền đô hộ. Liễu Thăng vốn là tùy tướng của Trương Phụ - kẻ cầm đầu dạoquân xâm lược nước ta năm 1406. Bấy giờ, Liễu Thăng đã đóngquân ở cửa Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên) và đem quân đuổi theoHồ Quý Ly đến cửa biển Kỳ La (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh). Mộc Thạnh, từ năm 1406 đã giữ chức tả phó tổng binh trong đạoquân Trương Phụ. Mộc Thạnh đã chỉ huy trận đánh chiếm thành ĐaBang (Ba Vì, Hà Tây) và đã từng bị nghĩa quân Trần Ngỗi đánh bại ởtrận Bô Cô (trên bờ sông Đáy, Ý Yên, Nam Hà) năm 1408. Hoàng Phúc, năm 1406 cũng theo Trương Phụ làm đốc biện quânlương. Khi nhà Minh đặt ách thống trị lên nước ta, Hoàng Phúc kiêmgiữ hai chức bố chánh và án sát, tổ chức trấn áp phong trào yêunước của nhân dân ta, thực hiện chính sách bóc lột vơ vét của cải vàđồng hóa ráo riết. Hắn nắm vững địa hình, hiểu biết tường tận tìnhhình nước ta. Hai mươi năm nhà Minh thống trị đất nước ta thì HoàngPhúc đã ở đây đến 18 năm (Minh sử, liệt truyện, truyện Hoàng Phúc). Việc điều động viện binh lần này với số quân chiến đấu 15 vạn vànhững tướng dày kinh nghiệm, am hiểu tình hình và quen thuộc chiếntrường nước ta, chứng tỏ nhà Minh vẫn giữ quyết tâm xâm lược,dùng bạo lực hòng tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân d ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Lịch sử Việt Nam Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử Lịch sử dân tộc Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang năm 1427 Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785 Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm 1789Gợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 146 0 0 -
69 trang 80 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 59 0 0 -
11 trang 51 0 0
-
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 49 0 0 -
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 46 0 0 -
26 trang 42 0 0
-
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 41 0 0 -
183 trang 40 0 0