Danh mục

LUẬN VĂN: Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng ngân hàng

Số trang: 79      Loại file: pdf      Dung lượng: 615.81 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 8 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ngày nay ,các nhà khoa học đều đồng ý với nhau rằng các mầm mống của sự ra đời của ngân hàng đã xuất hiện cùng lúc với sự hình thành đời sống kinh tế và xã hội loài người .Rất nhiều di tích và tài liệu tìm được cho thấycác hoạt động ngân hàng sơ khai đã ra đời từ 3-4 ngàn năm trước công nguyên .Khi đó, sự phát triển của nền sản xuất, phân công lao động xã hội dẫn tới sự phát triển của hoạt động trao đổi, bắt đầu từ sự trao đổi trực...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng ngân hàng LUẬN VĂN:Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng ngân hàng Chương I Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng ngân hàngI.Ngân hàng thương mại 1.Sự hình thành và phát triển Ngày nay ,các nhà khoa học đều đồng ý với nhau rằng các mầm mống của sự rađời của ngân hàng đã xuất hiện cùng lúc với sự hình thành đời sống kinh tế và xãhội loài người .Rất nhiều di tích và tài liệu tìm được cho thấycác hoạt động ngânhàng sơ khai đã ra đời từ 3-4 ngàn năm trước công nguyên .Khi đó, sự phát triểncủa nền sản xuất, phân công lao động xã hội dẫn tới sự phát triển của hoạt động traođổi, bắt đầu từ sự trao đổi trực tiếp hàng hoá cho đến sự trao đổi qua sự trung giancủa tiền tệ. Sự xuất hiện của tiền tệ trong điều kiện có sự phân tán của sản xuất, sựtồn tại của nhiều vùng lãnh thổ khác nhau dẫn tới có nhiều loại tiền tệ khác nhau,điều này khiến cho các khó khăn trong trao đổi, bảo quản tiền tệ nảy sinh. Để loạibỏ khó khăn này, có một số thương gia chuyển từ việc buôn bán hàng hoá sangbuôn bán, bảo quản và chuyển đổi tiền tệ giữa các vùng. Những tổ chức chuyênnghề kinh doanh tiền tệ dần dần ra đời để đáp ứng những chức năng riêng biệt dolưu thông tiền tệ đòi hỏi . Nghiệp vụ đầu tiên của các tổ chức này là thực hiệnviệc đổi các loại tiền tệ khác nhau ra vàng, bạc và ngược lại giữa các vùng, giữa cácnước để phục vụ cho quan hệ giao lưu hàng hoá. Chính nghiệp vụ này đã kéo theosự ra đời của các nghiệp vụ khác mà các tổ chức chuyên doanh tiền tệ nói ở trênthực hiện gồm từ nhận tiền gửi, bảo quản trong thời gian chờ thanh toán ,thực hiệnviệc chi trả hộ. Việc giữ hộ, thanh toán hộ khách hàng, đặc biệt các khách hàng của cùng một tổchức kinh doanh tiền tệ, dẫn tới sự nhận thức về tính không lưu chuyển của tiền gửitrong két và do đó dẫn tới việc các tổ chức này phát hành các chứng phiếu (giấynhận nợ) làm phương tiện thanh toán thay cho tiền .(Thực ra, các chứng phiếu này,lúc đầu, là những biên lai xác nhận quyền sở hữu số tiền đã gửi để làm căn cứ rúttiền và sau đó nó được sử dụng trong mua bán ,thanh toán với số tiền gửi là vật bảođảm ) Hoạt động thanh toán bằng chứnh phiếu đó tạo ra một lượng tiền(vàng) tồnđọng trong két với tính ổn định nhất định , điều này nảy sinh nhu cầu sử dụng nó.Trong khi đó, có nhiều thương gia cần tiền để mở rộng hoạt động kinh doanh củamình. Từ đó , các tổ chức kinh doanh tiền tệ này mở rộng thêm hoạt động cho vay.Đây là một sự kiện quan trọng tong việc chuyển những tổ chức hoạt động dịch vụtiền tệ thuần tuý thành những tổ chức ngân hàng chuyên doanh trên lĩnh vực tiềntệ_tín dụng.Theo thời gian, các tổ chức chuyên doanh tiền tệ dần dần phát triển thêm nhiềunghiệp vụ khác như : Thực hiện phương pháp bù trừ trong thanh toán, chuyểnnhượng; Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ; áp dụng nghiệp vụ chiết khấu thương phiếuv. v…và đến thế kỷ 15 , có 2 tổ chức được xem như là một ngân hàng thực sự theoquan điểm ngày nay ra đời, đó là Banca di Barcelone(1401) và Banca diValencia(1409). Từ thế kỉ 15 đến thế kỉ 18, xuất hiện nhiều tổ chức Ngân hàng lớnthực hiện nhiều nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ đặc biệt là đã cho ra đời loại tín phiếuchứng nhận về tiền gửi được dùng để thanh toán, chi trả gần giống như giấy bạcngày nay. Cùng với sự phất triển của sản xuất, lưu thông hàng hoá, hệ thống ngân hàngngày càng phát triển và dẫn tới sự phân hoá do những cản trở mà nó tạo ra cho quatrình giao lưu hàng hoá nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Đó là khoảng từthế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20. Từ năm 1609 đến 1694, các ngân hàng đều có quyềntạo ra những tờ giấy bạc có hiệu lực pháp lý như nhau trong lưu thông, tình trạngđược phát hành tiền đó bị lợi dụng. Trong nền kinh tế các nước lúc bấy giờ có nhiềungân hàng, mỗi ngân hàng đều phát hành giấy bạc của mình, làm cho trong nước cónhiều loại giấy bạc khác nhau, gây cản trở cho việc lưu thông và phát triển kinh tế.Nhà nước đã can thiệp vào lĩnh vực hoạt động ngân hàng bằng cách ban hành cácđạo luật để hạn chế số lượng các ngân hàng đuựơc phép phát hành tiền. Chỉ sau khichính phủ giới hạn quyền phát hành về một ngân hàng vào cuối thế kỷ 18, khỏangcách giữa các ngân hàng bắt đầu phát sinh : Đó là chỉ có một ngân hàng được phépphát hành tiền gọi là ngân hàng phát hành và các ngân hàng còn lại không đượcphép phát hành tiền là các ngân hàng trung gian, trong đó chủ yếu là các ngân hàngthương mại. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, phần lớn các nước đã thực hiện cơ chế một ngânhàng độc quyền phát hành tiền nhưng các ngân hàng này, do điều kiện lịch sử củasự hình thành của nó, vẫn thuộc quyền sở hữu tư nhân. Điều này không cho phépnhà nước can thiệp một cách thường xuyên vào các hoạt động kinh tế thông qua cáctác động của tiền tệ, đặc biệt khi mà khủng hoảng kinh tế_người bạn đường của chủnghĩa tư bản _ngày càng mạnh, phá hoại ngày càng sâu sắc, chu kỳ ngà ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: