Danh mục

LUẬN VĂN: Ứng dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán tài chính

Số trang: 29      Loại file: pdf      Dung lượng: 422.30 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường thì để thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” chúng ta không chỉ coi trọng việc gia tăng các nguồn lực kinh tế bao gồm: nguồn lực lao động, nguồn lực tài chính, nguồn lực tự nhiên...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Ứng dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán tài chính LUẬN VĂN: Ứng dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán tài chính Lời Nói Đầu Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường thì để thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” chúng ta không chỉ coi trọng việc gia tăng các nguồn lực kinh tế bao gồm: nguồn lực lao động, nguồn lực tài chính, nguồn lực tự nhiên, mà vấn đề hết sức quan trọng còn là ở chỗ, phải đảm bảo cho nguồn lực này được sử dụng một cách triệt để, có hiệu quả đảm bảo tính kinh tế và tiết kiệm. Kiểm toán đã ra đời ở Việt Nam, đáp ứng và phục vụ mục tiêu đó. Tuy nhiên làm thế nào để nâng cao chất lượng của kiểm toán nói chung kiểm toán độc lập nói riêng đặc biệt là kiểm toán báo cáo tài chính vẫn là vấn đề cần được giải quyết trong điều kiện các văn bản pháp lý, quy định mang tính nghề nghiệp cho hoạt động kiểm toán ở Việt Nam chưa đầy đủ. Hiện nay Bộ Tài chính đã ban hành 10 chuẩn mức áp dụng đối với kiểm toán báo cáo tài chính . Trong 10 chuẩn mực đó có chuẩn mực số 520 – các thư mục phân tích. Nhận thấy tính chất quan trọng của các thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính, em chọn đề tài : “ Ứng dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán tài chính” . Đề tài này gồm 3 phần . I . vai trò vị trí của các thủ tục phân tích II. nội dung các thủ tục phân tích. III. ứng dụng các thủ tục. I. ví trí vai trò của các thủ tục phân tích trong một cuộc kiểm toán . 1. Khái niệm về thủ tục phân tích . Theo định nghĩa ở văn bản thường dẫn chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 56 “ Các thủ tục phân tích là quá trình đánh giá các thông tin tài chính được thực hiện thông qua phân tích mối quan hệ đáng tin cậy giữa các dữ liệu tài chính và dữ liệu phi tài chính. Nó bao hàm cả việc so sánh số liệu tổng hợp trên sổ sách với số liệu ước tính của kiểm toán viên”. Hội đồng chuẩn mực kiểm toán quốc tế đã đi đến kết luận là các thủ tục phân tích rất qua trọng và nó cần thiết phải được áp dụng trong tất cả các cuộc kiểm toán. Đối với một số dịch vụ tài chính khác các thủ tục phân tích cũng được hội đồng yêu cầu sử dụng như dịch vụ xem xét, đánh giá lại hệ thống báo cáo tài chính nội bộ và các báo cáo tài chính ở các công ty ngoài quốc doanh nơi mà rủi ro kiểm toán được chấp nhận ở mức trung bình hơn là mức thấp. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế (IAS) 520 quy định chuyên gia kiểm toán phải tiến hành các thủ tục phân tích khi lập kế hoạch kiểm toán và khi kiểm tra lại tính hợp lý của toàn bộ các báo cáo tài chính. Các thủ tục phân tích cũng có thể được áp dụng ở các khâu khác”. Đồng thời nguyên tắc 12 trong các nguên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế (IGA) do Liên đoàn kế toán quốc tế (IPAC) ban hành cũng nêu rõ. Một cuộc kiểm toán phải được lập kế hoạch phù hợp để kiểm toán viên thu nhập được bằng chứng đầy đủ, thích hợp làm căn cứ cho các nhận xét của mình. Phương pháp phân tích được coi là một dạng của phương pháp kiểm toán cơ bản nhằm thu nhập bằng chứng kiểm toán. Nguyên tắc này yêu cầu sử dụng phương pháp phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch và soát xét lại toàn bộ các bước công việc của một cuộc kiểm toán. Nguyên tắc này cũng hướng dẫn việc sử dụng phương pháp phân tích như là các biện pháp kiểm tra cơ bản. ở Việt Nam, chuẩn mực kiểm toán số 520 – Các thủ tục phân tích cũng quy định kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục phân tích khi lập kế hoạch kiểm toán và giai đoạn soát xét tổng thể báo các tài chính, thủ tục phân tích cũng có thể thực hiện ở các giai đoạn khác. Như vậy thực hiện các thủ tục phân tích trong một cuộc kiểm toán là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các công ty kiểm toán. 2. Mục đích sử dụng . Các thủ tục phân tích được sử dụng trong kiểm toán nhằm các mục tiêu : Trợ giúp thời gian cần thiết để thực hiện kiểm toán và mở rộng các thủ tục kiểm toán khác, đồng thời hướng dẫn kiểm toán viên lưu ý các bộ phận kiểm tra đặc biệt. Các thủ tục phát triển được xem như một thử nghiệm cơ bản cung cấp bằng chứng về sự hợp lý của các khoản mục trên báo cáo tài chính, các thông tin tài chính riêng biệt. Trong giai đoạn hoàn thành kiểm toán, các thủ tục phát triển được sử dụng để xem xét lại tổng quát lần cuối toàn bộ số liệu đã được kiểm toán nhằm củng cố thêm cho kết luận được đưa ra, hoặc đặt ra các vấn đề cần phải tiến hành thêm các thủ tục kiểm soát để có thể kết luận. Kỹ thuật phân tích được đánh giá là một phương pháp kiểm toán có hiệu quả cao vì trong thời gian ít, chi phí thấp mà còn lại có thể cung cấp các bằng chứng về sự đồng bộ, chuẩn xác và có giá trị về các số liệu kế toán; đánh giá được những nét tổng thể và không bị xa vào các nghệp vụ cụ thể. Khi một thủ tục phân tích không làm bật lên các giao động bất thường thì có nghĩa là khả năng của sai số vượt quá mức cho phép là rất nhỏ. Trong trường hợp đó, thủ tục phân tích cấu thành bằng chứng thực sự để chứng minh cho sự trình bày trung thực của các số dư tài khoản liên quanviệc tiến hành khảo sát chi tiết các tài khoản này giảm bớt. Các thủ tục phân tích thường không tốn kém như các cuộc khảo sát chi tiết. Do đó hầu hết các kiểm toán viên thay thế các thủ tục kiểm tra chi tiết bằng các thủ tục phân tích bất cứ khi nào có thể làm được. 3. Bản chất của các thủ tục phân tích. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISA)520, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520, nguyên tắc chỉ đạo một cuộc kiểm toán (IAG) nguyên tắc 12 cơ bản thống nhất về bản chất về bản chất của các thủ tục phân tích: Phương pháp phân tích bao gồm việc so sánh thông tin tài chính với thông tin tương ứng trong những kỳ trước. Các kết quả dự kiến của đơn vị, chẳng hạn như dự toán ngân sách hoặc dự trù hay các số liệu ước tính của chuyên gia kiểm toán, chẳng hạn như chi phí khấu hao ước tính. Các thông tin trong lĩnh vực hoạt động tương tự, ví dụ như so sánh tỷ xuất doanh thu t ...

Tài liệu được xem nhiều: