Danh mục

Lược sử Việt Nam vắn tắt 1

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 127.97 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Lược sử Việt Nam vắn tắt 1Thời Dựng Nước Thời đồ đá cũ Con người đã xuất hiện khá sớm trên đất Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết của người vượn Homo erectus trong một số hang động ở Lạng Sơn và Nghệ An. Ðặc biệt là ở hậu kỳ thời đá cũ (văn hoá Sơn Vi cách ngày nay 10.000 - 23.000 năm), con người đã phân bố khá rộng và khá đông trên đất Việt Nam. Ðến văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (khoảng 6.000 - 10.000 năm),...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lược sử Việt Nam vắn tắt 1 Lược sử Việt Nam vắn tắt 1 Thời Dựng NướcThời đồ đá cũCon người đã xuất hiện khá sớm trên đất Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổhọc đã tìm thấy dấu vết của người vượn Homo erectus trong một số hang động ởLạng Sơn và Nghệ An. Ðặc biệt là ở hậu kỳ thời đá cũ (văn hoá Sơn Vi cách ngàynay 10.000 - 23.000 năm), con người đã phân bố khá rộng và khá đông trên đấtViệt Nam. Ðến văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (khoảng 6.000 - 10.000 năm), conngười đã biết dùng công cụ cuội được ghè đẽo một mặt, bắt đầu biết mài rìu đá,làm đồ gốm và có khả năng đã biết đến trồng trọt sơ khai.Thời đồ đá mớiTrong giai đoạn này trên đất Việt Nam, đã xuất hiện những nhóm cư dân tiền sửcó đặc trưng văn hoá là thuộc thời đại đá mới... Con người trong giai đoạn này đãbiết dùng những chiếc rìu đá được mài nhẵn hoàn toàn, những chiếc vòng tay đáđược khoan rất khéo, và những đồ gốm có hoa văn rất đẹp.Thời đồ đồngCon người đã biết đúc các công cụ, vũ khí và đồ trang sức bằng đồng thau. Họ đãbiết trồng lúa và chăn nuôi một số gia súc như trâu, bò, lợn, gà. Có ba nhóm vănhoá phân bố ở ba khu vực. Nhóm thứ nhất (văn hoá Tiền Ðông Sơn) phân bố trongcác lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả. Nhóm thứ hai (văn hoá Tiền SaHuỳnh) phân bố ở vùng Nam Trung Bộ. Và nhóm thứ ba, phân bố trong lưu vựcsông Ðồng Nai ở miền Ðông Nam Bộ. Ở miền Bắc Việt Nam, các văn hoá tiềnTiền Ðông Sơn tương ứng với giai đoạn đầu của thời kỳ Hùng Vương.Thời đồ sắtCác nhóm văn hoá Tiền Ðông Sơn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã hội tụ lại thànhmột văn hoá thống nhất, đó là văn hoá Ðông Sơn, thuộc thời đại sắt sớm vì một sốcông cụ bằng sắt đã xuất hiện. Nhưng các chế phẩm bằng đồng thau tinh xảo làđặc trưng của văn hoá này. Hiện vật tiêu biểu là những chiếc trống đồng lớn cóhoa văn trang trí đẹp. Chính quyền Trưng nữ vươngHiệu là Trưng Trắc, con gái của Lạc tương Mê Linh. (Ðất Mê Linh nay thuộcvùng giáp giới giữa Hà Tây với Vĩnh Phú và ngoại thành Hà Nội). Thân sinh mấtsớm, Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị được thân mẫu là bà Ma Thiện (cũng cótruyền thuyết nói là bà Trần Thị Ðoan) nuôi dưỡng.Hiện chưa rõ Trung Trắc sinh năm nào, chỉ biết khi Tô Ðịnh được nhà Ðông Hánsai sang làm Thái Thú ở Giao Chỉ (năm 34), thì Trưng Trắc đã trưởng thành và kếthôn với con trai của Lạc tướng Chu Diên là Thi Sách. (Ðất Chu Diên nay là vùnggiáp giới giữa Hà Tây với Nam Hà).Bấy giờ, nhân lòng căm phẫn của nhân dân ta đối với chính sách thống trị tàn bạocủa nhà Ðông Hán, lại cũng nhân vì Thi Sách bị Thái Thú Tô Ðịnh giết hại, TrưngTrắc cùng em là Trưng Nhị và nhiều bậc hào kết khác, phát động và lãnh đạo cuộckhởi nghĩa có quy mô rất lớn.Khởi nghĩa bùng nổ vào cuối năm 39 đầu năm 40 và nhanh chóng được nhân dâncỏ nước nhất tề hưởng ứng. Tô Ðịnh phải hốt hoảng bỏ chạy về nước.Chính quyền Trưng Nữ Vương tồn tại được trong khoảng gần ba năm (từ đầu năm40 đến cuối năm 42, đầu năm 43). Sử gia Lê Văn Hưu (1230 - 1322) viết: TrưngTrắc, Trưng Nhị là đàn bà mà hô một tiếng cũng có thể khiến được các quận :Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại hưởngứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay. Xem thế cũng đủ biết hìnhthế đất Việt có thể dựng được nghiệp bá vương.Nhà Ðông Hán đã phải cử tên lão tướng khét tiếng tàn bạo và dày dạn kinhnghiệm trận mạc là Mã Viện sang đàn áp mới tiêu diệt được lực lượng và chínhquyền Hai Bà Trưng. Chính quyền của Bà TriệuBà Triệu (Triệu Thị Trinh) người đất Quân Yên (nay thuộc huyện Thiệu Yên, tỉnhThanh Hoá), sinh năm nào chưa rõ, chỉ biết khi cùng anh là Triệu Quốc Ðạt khởixướng và lãnh đạo cuộc chiến đấu chống ách dô hộ của quân Ðông Ngô (năm248), Bà đã là một cô gái ở độ tuổi khoảng trên dưới hai mươi. Bấy giờ, nhiềungười khuyên Bà nên lập gia đình, xây dựng hạnh phúc riêng, nhưng Bà đã khẳngkhái trả lời : Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh đạp ngọn sóng dữ, chém cá tràng kìnhở Biển Ðông, đánh đuổi quân ngô, cởi ách nô lệ cho nhân dân chớ không chịukhom lưng làm tì thiếp người ta. Sau câu nói bừng bừng khẩu khí anh hùng đó,Bà đã quả cảm phát động khởi nghĩa.Quân Ngô sau nhiều phen thất bại, đã tìm đủ mọi thủ đoạn xảo quyệt, thậm chí đãdùng cả tước hiệu Lệ Hải Bà Vương để chiêu dụ Bà, nhưng ý chí của Bà trước sauvẫn không hề bị lung lạc.Cuối cùng, nhà Ngô đã phải sai viên tướng lừng danh là Lục Dận đem đại binhsang đàn áp. Bà triệu cùng hàng loạt nghĩa binh đã anh dũng hi sinh vào năm 248.Về thực chất, bộ chỉ huy khởi nghĩa do Bà Triệu cầm đầu cũng là một guồng máychính quyền. Bà Triệu chưa xưng đế hay xưng vương, cũng chưa đặt quốc hiệuhay niên hiệu, nhưng rõ ràng, guồng máy chính quyền sơ khai do Bà Triệu lập ra,hoàn toàn biệt lập và đối nghịch sâu sắc với chính quyền đô hộ của quân Ngô.Giai đoạn hình thành quốc ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: