LÝ HỌC VÀ TƯỢNG SỐ CỦA NHO - LÃO - PHẬT GIÁO
Từ khi ra đời và phát triển đến thế kỷ XI là thời điểm Nho giáo thịnh vượng nhất cùng với những tên tuổi lớn như: Âu Dương Tu, Thiệu Ung, Chu Hi... Đồng thời cho đến lúc này, Nho giáo được chia ra thành hai bộ phận: đạo học và đức học, và trình độ triết học của Nho giáo đã được nâng lên cao ngang với Lão học và Phật học.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LÝ HỌC VÀ TƯỢNG SỐ CỦA NHO - LÃO - PHẬT GIÁO
LÝ HỌC VÀ TƯỢNG SỐ CỦA NHO - LÃO - PHẬT GIÁO
Từ khi ra đời và phát triển đến thế kỷ XI là thời điểm Nho giáo thịnh vượng
nhất cùng với những tên tuổi lớn như: Âu Dương Tu, Thiệu Ung, Chu Hi...
Đồng thời cho đến lúc này, Nho giáo được chia ra thành hai bộ phận: đạo
học và đức học, và trình độ triết học của Nho giáo đã được nâng lên cao
ngang với Lão học và Phật học.
Nếu xét kỹ trong lĩnh vực học vấn, Nho giáo vẫn chú trọng về chính trị và
luân lý, còn Lão giáo và Phật giáo trong thực tế tuy có nhiều ẩn ý sâu xa, mê
hoặc lòng người, nhưng tư tưởng lại không có giới hạn, cho nên nhiều học
giả cố công ra sức nghiền ngẫm thay vì học thuộc lòng những lễ giáo sáo cũ
của Nho học. Cũng là một đạo giáo phát triển, nhưng Lão học đã thịnh từ
thời Tam quốc. Phật học từ thời Đường, thu hút rất nhiều kẻ sĩ và triết gia để
không ngừng mở rộng, trong khi Nho giáo vẫn khăng khăng bó buộc con
người ta trong một khuôn khố chật hẹp. Tuy thế, phần lý học cơ bản có một
điểm chung tương đồng giữa Nho - Phật - Lão: Thiên địa vạn vật nhất thể,
tức là vũ trụ do Thái cực (điểm vô cùng không giới hạn) sinh ra Lưỡng nghi,
sinh ra Tứ tượng rồi âm dương vận động, kết hợp sinh ra vạn vật, vạn vật
theo chu kỳ sinh - tử lại trở về với Thái cực (cõi hư không). Nhưng do cách
lập giáo và hành đạo khác nhau, nên học thuyết này chia thành 3 quan điểm.
Lão giáo cho rằng, vạn vật đều bắt nguồn từ cái gốc là Đạo, cuộc đời chẳng
qua là quãng phù vân, hơi đâu mà mưu tính lo nghĩ cho nặng đầu, tốt nhất cứ
vui chơi thỏa lòng, hợp đạo hòa với thiên nhiên, thậm chí không cần nhân, lễ
nghĩa, trí, tín kể cả luật pháp, quan điểm xã hội, miễn ta với ta thanh thản
đến mức vô vi. Tư tưởng này thể hiện rõ nhất ở câu nói của Lão Tử: Vi vô
vi, Vị vô vị, Sự vô sự, Dục bất dục. Học bất học (đại ý là: làm mà như không
làm, ham muốn mà cũng như không, học cũng như chưa học...). Phật giáo lại
coi vạn sự do thuyết luân hồi quyết định, sắc sắc - không không như nhau,
đều do cái Ngộ của bản thân làm chủ, chu kỳ sinh hóa luân chuyển là một
khái niệm tạm thời hư ảo chứ không phải thực con người ta phải luyện chữ
Nhẫn để tìm về cội nguồn vĩnh hằng mới mong thoát khỏi vòng sinh tử, nơi
đó không còn lo nghĩ, sầu bi, khổ não, và lúc ấy là ta đắc đạo. Chẳng thế mà
kinh Phật viết: Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi
mà không gặp kẻ làm nhà. Đau khổ thay kiếp sống cứ tái diễn mãi! Hỡi kẻ
làm nhà? Nay ta gặp được người rồi. Người không thể làm nhà nữa, ta đã
chứng đắc Niêt bàn, bao nhiêu dục ái đều đứt sạch Nho giáo thì quan niệm
mọi biến hóa trong vũ trụ phụ thuộc vào Thái cực. Cái gì đã sinh ra tức là
thực có phải tận dụng, thuận theo chân lý nguyên- hanh- lợi- trinh của tạo
hóa để sinh tồn. Mọi quy luật cuộc sống đều được sắp đặt trong một công
thức nhất định mà con người ta hoàn toàn có thể biết được theo nhiều cách,
tùy thuộc vào trình độ nhận thức, vì vậy: Còn hay mất, phúc hay họa đều do
nơi mình cả. Thiên tai, địa ám thì có can gì? Cũng vì tư tưởng tích cực nên
Nho giáo tạo ra cái đạo nhập thế,còn Lão và Phật giáo tiêu cực hơn gọi là
đạo xuất thế. Ngoài ra, tính thực tiễn của Nho giáo cũng được ứng dụng rộng
rãi nhất, không chỉ là cầu nguyện suông, mà còn muốn đạt được cái mình
muốn.
Nhưng tượng số học của Tam giáo trên lại không khác nhau là mấy. Đã bàn
đến Tượng số thì phải kể đến tên Thiệu Ung, hay còn gọi là Thiệu Khang
Tiết và cuốn sách Hoàng cực kinh thế nổi tiếng của ông được biên soạn theo
lý thuyết của Kinh dịch và Kinh Thái Huyền có 60 chương phân tích về
tượng số của trời đất sự biến hóa của Thái cực ông đã lấy những mã vạch âm
dương mà vua Phục Hi đã đặt ra để định tượng số, lập hẳn ra một học thuyết
có ảnh hưởng đến tận bây giờ (người cháu đời thứ 29 của ông là Thiệu Vĩ
Hoa hiện nay đang phụ trách Trung tâm nghiên cứu ứng dụng Dịch học của
Trung Quốc có chi nhánh ở hầu hết các tỉnh thành lớn, kể cả Hồng Kông và
Đài Loan). Ông được các học giả qua nhiều đời suy tôn là bậc đại triết gia
của Nho giáo. Thiệu Khang Tiết cho rằng: Vật lớn không gì bằng trời đất,
thế mà cũng có chỗ hết. Cái lớn của trời thì đến âm dương là hết. Cái lớn của
đất thì đến Cương nhu là hết. Trời sinh ra bởi động. Đất sinh ra bởi tĩnh. Lúc
mới động thì dương sinh động đến cực thì âm sinh. Một âm, một dương giao
nhau mà hết cái dụng của trời đất. Ông còn lấy cái thể và cái dụng của tứ
tượng phối hợp với nhau thành tượng số tự nhiên như: Nóng, lạnh ngày,
đêm, mưa, gió, sương, s m làm sự biến và sự hóa của trời đất, Lấy tính, tình,
hình, thể, chạy, bay, cỏ, cây làm sự cảm và sự ứng của vạn vật, Lấy nguyên,
hội, vận, thế, tuế, tiết, nhật nguyệt làm cái trước và cái sau của không gian
và thời gian. Theo đó, vòng thời gian có một nguyên là 129.600 năm gồm 12
hội, mỗi hội là 10.800 năm có 30 vận, mỗi vận là 360 năm có 12 thế mỗi thế
là 30 năm. Như vậy, một nguyên có 12 hội, 360 vận, 4320 thế. Cuộc đại biến
hóa củ ...