“Game theory is hot,” The Wall Stress Journal nhận định vào năm 1994, khi giải Nobel
kinh tế được tặng cho 3 học giả hàng đầu thuộc lĩnh vực này. Vào thời điểm đó, ứng
dụng của lý thuyết trò chơi trong thực tế ở Mỹ đạt tới quy mô lớn chưa từng thấy.
Hàng tỷ dollars giá trị bán công nghệ truyền sóng (spectrum lisences) của chính phủ
Mỹ được thực hiện, nhờ vào những phương thức đấu thầu, được thiết kế bởi các lý
thuyết gia về trò chơi. Ngay lập tức, mọi phương tiện thông tin đại chúng ở Mỹ và
Châu Âu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lý thuyết trò chơi và ứng dụng trong kinh doanh
Lý thuyết trò chơi và ứng dụng trong
kinh doanh
Lý thuyết trò chơi và ứng dụng trong kinh doanh
Lời giới thiệu
“Game theory is hot,” The Wall Stress Journal nhận định vào năm 1994, khi giải Nobel
kinh tế được tặng cho 3 học giả hàng đầu thuộc lĩnh vực này. Vào thời điểm đó, ứng
dụng của lý thuyết trò chơi trong thực tế ở Mỹ đạt tới quy mô lớn ch ưa t ừng thấy.
Hàng tỷ dollars giá trị bán công nghệ truyền sóng (spectrum lisences) c ủa chính ph ủ
Mỹ được thực hiện, nhờ vào những phương thức đấu thầu, được thiết kế bởi các lý
thuyết gia về trò chơi. Ngay lập tức, mọi phương tiện thông tin đại chúng ở Mỹ và
Châu Âu đưa tin về sự kiện này. Tờ New York Time gọi đó là “cuộc đấu thầu lớn nhất
trong lịch sử”. Tạp chí Economist nhấn mạnh thêm, “đối với các doanh nghiệp muốn
chạm tay vào dải băng sóng (airwaves), cách đặt c ược tốt nhất là đi tìm và thuê cho
mình một chuyên gia giỏi về lý thuyết trò chơi.”
Ngày nay, lý thuyết trò chơi được ứng dụng rộng khắp, t ừ vi ệc l ập chi ến l ược đàm
phán, cho đến chiến lược cạnh tranh, quảng cáo, sàng lọc khách hàng; và thi ết l ập các
thể chế thúc đẩy sự phối hợp sức mạnh thị trường giữa các doanh nghiệp. Những
nghiên cứu vận dụng lý thuyết trò chơi trong các lĩnh vực này đã đ ưa l ại gi ải Nobel
cho 3 nhà kinh tế học hàng đầu là Akelof về phân tích sự hoạt đ ộng c ủa thị trường
hàng kém chất lượng (lemons market); Spence về việc đánh tín hiệu chất lượng hàng
hóa cho người tiêu dùng (signaling); và Stiglitz, học gi ả rất quen thu ộc v ới ng ười Vi ệt
nam, về vấn đề sàng lọc đối tác (screening).
Gần đây nhất, một lần nữa, hai học giả Mỹ, Robert Aumamn và Thomas Schelling,
lại đọat giải Nobel kinh tế 2005 về nghiên cứu của họ trong lý thuyết trò ch ơi và
những ứng dụng của nó. Nghiên cứu của các ông tập trung vào vi ệc lý gi ải s ự hình
thành các thể chế kinh tế và xã hội nhằm phối hợp hành vi c ủa các bên trong nh ững
tương tác có tính chiến lược. Tức là những tình huống mà mỗi bên đều tìm cách “gây
ảnh hưởng, dự đóan, và thích ứng với những chiến lược hay cách thức ứng xử mà các
đối tác khác đã làm, hoặc dự định làm.”
Một tương tác tiêu biểu là đàm phán về giá cả giữa người mua và người bán. M ỗi bên
đều tìm cách đoán xem bên kia sẽ chấp nhận đề đạt gì từ phía mình. Khi những dự
đoán của họ trùng hợp nhau thì thỏa thuận được thực hiện. Theo thuật ngữ của lý
thuyết trò chơi, họ đạt đến trạng thái cân bằng - mỗi bên đã hành động phù hợp nhất
với dự đoán của mình về điều mà bên kia mong đợi và những dự đoán đó là đúng.
Vấn đề đặt ra trong nghiên cứu của họ là đi ều gì khiến cho d ự đoán c ủa các bên v ề
hành vi của bên kia trùng hợp nhau. Nói khác đi, trong rất nhiều những khả năng có thể
xảy ra, tại sao một kết cục cụ thể lại được c ả hai bên đàm phán cùng l ựa chọn.
Thomas Schelling làm cho câu hỏi ấy trở nên nổi tiếng trong cu ốn sách Strategy of
Conflict. Để hiểu lý thuyết của ông, chúng ta bắt đầu bằng nh ững ví d ụ đ ơn gi ản.
Chẳng hạn, bạn nên đi bên lề đường nào? Câu tr ả l ời xem ra có v ẻ d ễ dàng. Vì m ọi
người đều đi bên phải, nên tôi cũng sẽ làm như vậy. Cũng hệt nh ư th ế, đi l ề đ ường
bên trái là đúng, nếu như bạn đang ở Anh, Úc, ho ặc Nhật Bản. Nh ư vậy, cu ộc chơi có
hai trạng thái cân bằng. Và chẳng ai nói cho chúng ta biết tại sao việc đi l ề bên ph ải
lại được chọn so với bên trái hoặc ngược lại. Khi mà cuộc chơi có nhi ều trạng thái
cân bằng như vậy, những người tham dự cuộc chơi phải có cùng chung m ột cách hi ểu
là cân bằng nào sẽ được lựa chọn. Trong ví d ụ v ừa nêu, lu ật đi đ ường t ại m ỗi qu ốc
gia hướng đích cho chúng ta. Nhưng khi một đám bạn rủ nhau đi u ống cà phê, ch ưa ai
kịp nói cho ai sẽ dừng lại ở quán nào. Một trong số họ bị kẹt xe ở d ọc đ ường và b ị b ỏ
lại phía sau. Mobile phone thì vừa bị hết pin. N ơi nào anh ta nên đ ến đ ể g ặp l ại b ạn
bè? Dĩ nhiên là chẳng có câu trả lời nào phù hợp hơn ngoài việc ch ọn cái đ ịa đi ểm mà
cả nhóm hay giao lưu nhất. Ở đây, thông lệ của nhóm giúp anh ta lời giải đáp.
Chủ đề chung ở đây là thể chế, luật lệ nhà nước hoặc thông lệ xã hội, đóng vai trò cơ
bản trong việc phối hợp kỳ vọng và định hướng hành vi của các tác nhân trong một
nhóm, một tổ chức, hay một quốc gia. Bây gi ờ hãy xem thử th ể ch ế, pháp đ ịnh ho ặc
thông lệ, tác động thế nào đến đàm phán giá giữa bên mua và bên bán.
Ai cũng biết rằng, bên nào có quyền lực đàm phán lớn h ơn, thì có th ể đòi h ỏi l ợi ích
cao hơn từ thương mại. Ví dụ, Oracle là một thương hiệu lớn trong dịch vụ bảo hành
máy tính. Vì vậy, nó có thể đòi giá cao hơn đối th ủ c ạnh tranh mà không s ợ m ất t ất c ả
khách hàng trung thành. Dẫu sao đi nữa, trong các cuộc đàm phán nh ư v ậy, th ường có
vô số những thỏa thuận giá mà nó có thể đem lại lợi ích cho c ả bên mua và bán. Nh ư
đã nêu, thỏa thuận đạt được khi kỳ vọng của các bên về điều mà bên kia chấp thuận là
trùng hợp nhau. Dĩ nhiên, chẳng ai có thể nói trước đ ược k ết c ục nào s ẽ đ ược l ựa
chọn. Tuy nhiên, bối cảnh của cuộc đàm phán đôi khi lại cho phép làm sáng rõ một k ết
cục cụ thể, nhờ đó, kỳ vọng của các bên được trùng h ợp nhau. Thomas Schelling g ọi
đó là điểm tụ (focal point). Nó được soi sáng bởi tiền lệ (“chúng tôi làm như vậy vì nó
thường xuyên được làm theo cách đấy”); hoặc bởi vì sự công bằng hay tính đ ối xứng
(chia lợi ích thương mại theo tỷ lệ 50:50); hoặc thông qua người môi giới sốt sắng.
Như đã nêu, tiền lệ thường làm nổi bật lên điểm tụ, mà nhờ đó, kỳ vọng c ủa các bên
trùng hợp nhau.Tiền lệ hướng đích kỳ vọng; đến lượt nó, kỳ vọng định h ướng hành
động, để rồi lại trở thành tiền lệ, và cứ tiếp tục. Thomas Schelling gọi đó là quá trình
lập nên những hình mẫu hay tập tục (pattern). Đ ộng thái xã h ội khi ến cho quan h ệ xã
hội thường bị giao động (tipping) giữa các mẫu hình khác nhau, trước khi một thông
tục nổi lên như một thể chế phối hợp kỳ vọng và cưỡng chế hành vi. Sau này, Peyton
Young phát triển quan sát đó lên thành mộ ...