Mối liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và ung thư da tại Việt Nam
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 145.58 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết tập trung phân tích mối liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và ung thư da. Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư da bao gồm: nam giới có nguy cơ mắc ung thư da cao gấp 2 lần nữ giới, hút thuốc lá/thuốc lào có nguy cơ mắc ung thư da cao gấp 2,9 lần so với nhóm không hút thuốc; nhóm làm việc ngoài trời nắng có nguy cơ mắc cao gấp 1,7 lần so với nhóm không làm việc ngoài trời nắng, thời gian làm việc càng lâu thì nguy cơ mắc ung thư da càng cao và nhóm tiếp xúc tia X có nguy cơ mắc ung thư da cao gấp 2,5 lần so với nhóm không tiếp xúc.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mối liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và ung thư da tại Việt NamTẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌCMỐI LIÊN QUAN GIỮA MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠVÀ UNG THƯ DA TẠI VIỆT NAMNgô Văn Toàn1, Nguyễn Ngọc Hùng1, Bùi Văn Nhơn1, Trần Thị Hảo1,Hoàng Yến1, Nguyễn Minh Quang2, Lê Đức Minh21Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Da Liễu Hà NộiNghiên cứu được thực hiện trên 167 bệnh nhân ung thư da (nhóm bệnh) và 167 người không ung thư da(nhóm chứng) nhằm phân tích mối liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và bệnh ung thư da. Kết quả chothấy nam giới có nguy cơ mắc ung thư da cao gấp 2 lần nữ giới; hút thuốc lá/thuốc lào có nguy cơ mắc ungthư da cao gấp 2,9 lần so với nhóm không hút; nhóm làm việc ngoài trời nắng có nguy cơ mắc cao gấp 1,7lần so với nhóm không làm việc ngoài trời nắng; thời gian làm việc càng lâu thì nguy cơ mắc ung thư dacàng cao và nhóm tiếp xúc tia X có nguy cơ mắc ung thư da cao gấp 2,5 lần so với nhóm không tiếp xúc.Nghiên cứu này chưa tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố tuổi, nơi ở, học vấn, dân tộc, tiếp xúc hóa chất,nguồn nhiệt cao, chất phóng xạ sóng điện từ với ung thư da. Kết luận: yếu tố làm tăng nguy cơ mắc ung thưda là nam giới, làm việc ngoài trời nắng, hút thuốc, tiếp xúc tia X.Từ khóa: ung thư da, tiếp xúc ánh nắng mặt trời, hút thuốc, tiếp xúc tia XI. ĐẶT VẤN ĐỀước tính có 1,3 triệu người Mỹ mắc ung thưthường gặp hiện nay. Ung thư da gồm nhiềuda, trong đó có 53.000 người mắc ung thư tếbào hắc tố và > 7.000 người chết vì loại ungloại u ác tính xuất phát từ các tế bào biểu môcủa da. Có nhiều loại ung thư da khác nhau,thư này và đến năm 2006 ước tính có khoảngtrên 3,5 triệu bệnh nhân cao gấp gần 3 lần sốnhưng thường gặp nhất là ba loại ung thư datế bào đáy, ung thư tế bào vảy và ung thư tếbệnh nhân năm 2002 [2]. Ở Úc, ung thư dacao gấp 3 lần tổng số các ung thư khác cộngbào hắc tố. Ung thư tế bào đáy và ung thư tếbào vảy đều ở bề mặt, tốc độ phát triển chậmlại và khoảng 1% dân số bị ung thư da. TrongUng thư da là một trong những ung thưvà khả năng chữa lành cao, nhất là khi đượcthời gian 5 năm, ung thư tế bào vảy tăng 50%với tỷ lệ mới mắc từ 166/100.000 dân lênphát hiện sớm. Loại ung thư tế bào hắc tốnặng hơn, ảnh hưởng đến các lớp sâu hơn250/100.000 dân [3]. Ở Châu Âu, tỷ lệ ung thưda cũng rất cao. Ước tính một năm ở Thụy sỹcủa da và có nguy cơ di căn đến các mô kháccao nhất trong các loại ung thư da. Nghiêncó không dưới 15.000 bệnh nhân mới [4]. ỞAnh, tỷ lệ mắc mới ước tính trong thời gian 10cứu của Stern năm 2007 ở Mỹ cho thấy tỷ lệnăm từ 2001 đến 2010 tăng 33%. Một nghiênmắc ung thư da cao gấp năm 5 lần ung thư vúvà ung thư tiền liệt tuyến [1]. Số bệnh nhâncứu mới đây cho thấy tỷ lệ ung thư da củangười châu Á sống ở Singapore năm 2006 làmắc ung thư da ngày một tăng. Năm 20027,4/100.000 dân. Tỷ lệ ung thư biểu mô đáy ởngười Trung Quốc là 18,9/100.000 dân,Địa chỉ liên hệ: Ngô Văn Toàn, Phòng Quản lý Khoa họcCông nghệ, Bộ môn Sức khỏe môi trường, Trường Đạihọc Y Hà NộiEmail: ngovantoan57@yahoo.comNgày nhận: 6/8/2013Ngày được chấp thuận: 30/10/2013TCNCYH 85 (5) - 2013Người Mã Lai là 6,0/100.000 và người Ấn độlà 4,1/100.000 dân [5]. Tuy nhiên, nhữngnghiên cứu về ung thư da còn rất hạn chế. Đaphần các nước ở châu Á là các nước đangphát triển, do hạn chế về kinh tế cũng như sự91TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌCthiếu hiểu biết về ung thư da, nhiều trườnghóa chất độc và 70,8% bệnh nhân ở vùnghợp bị bệnh đã không đến khám và điều trị.nông thôn và vùng duyên hải [8]. Chính vìnhững lý do trên, nghiên cứu được tiến hànhTrong những năm gần đây, số người mắcung thư nói chung và ung thư da nói riêng ởViệt Nam tăng rất nhanh. Theo báo cáo của tổchức phòng chống ung thư quốc tế, số mớimắc ung thư ở nước ta năm 1990 là 52.721và đến năm 2002 con số này đã tăng lên75.150 với tỷ lệ mới mắc năm 2002 là144/100.000 dân. Ngoài một số ung thư phổbiến (ung thư phổi, ung thư cổ tử cung, ungthư vú, dạ dày, đại trực tàng và vòm họng),ung thư da cũng khá thường gặp. Theo ghinhận ung thư ở Hà nội 1992 - 1996 thì tỷ lệmắc ung thư da là 2,9 - 4,5/100 000 dân [6].Tại thành phố Hồ Chí Minh, theo ghi nhậnung thư năm 1997 thì tỷ lệ chuẩn theo tuổichung cho cả hai giới là 3/100 000 dân, xếpvị trí thứ 8 trong 10 loại ung thư thường gặp[7]. Và theo một báo cáo ở Việt Nam, năm2005 - 2006 thì tỷ lệ mới mắc của ung thư dalà 0,2 - 0,4/100.000 dân và tỷ lệ chết do ungthư da trong cùng thời điểm cũng từ 0,2 0,4/100.000 dân.Ung thư nói chung thường do hai yếu tốgen và môi trường gây nên. Các yếu tố nguycơ của ung thư da thường đã được một sốnghiên cứu trên thế giới đề cập là tiếp xúc vớiánh nắng mặt trời, nhiễm độc kim loại nặng,tiếp xúc hóa chất… Xác định được các yếu tốnguy cơ của ung thư da sẽ đề xuất được cácbiện pháp phòng bệnh, phát hiện và điều trịsớm bệnh. Tuy nhiên tại Việt Nam, có rất ítnghiên cứu này với mục tiêu phân tích mốiliên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và ungthư da.II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP1. Đối tượngNhóm bệnh bao gồm những bệnh nhânung thư da được phát hiện tại các bệnh viện ởHà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng cóđầy đủ địa chỉ, chẩn đoán và các thông tin cầnthiết cho nghiên cứu; tự nguyện tham gianghiên cứu. Nhóm chứng: những người cócác đặc trưng cá nhân khá tương đồng vớinhững trường hợp mắc ung thư da về các đặctrưng cá nhân và tiền sử tiếp xúc với các nguycơ của ung thư da nhưng không mắc ung thưda và tình nguyện tham gia nghiên cứu.2. Phương phápThiết kế nghiên cứu: Ung thư da là mộtbệnh hiếm gặp do vậy thiết kế nghiên cứubệnh - chứng là thiết kế nghiên cứu thíchhợp. Việc so sánh tiền sử tiếp xúc với yếu tốnguy cơ giữa 2 nhóm bệnh và nhóm chứngsẽ cho thấy yếu tố nào là yếu tố nguy cơ củaung thư da.Mẫu nghiên cứuCỡ mẫu: cỡ mẫu nghiên cứu trong nhómbệnh được tính theo công thức sau:nghiên cứu về vấn đề này. Nếu có thì cũng chỉlà những nghiên cứu với cỡ mẫu nhỏ và khutrú tại một bệnh viện như n ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mối liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và ung thư da tại Việt NamTẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌCMỐI LIÊN QUAN GIỮA MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠVÀ UNG THƯ DA TẠI VIỆT NAMNgô Văn Toàn1, Nguyễn Ngọc Hùng1, Bùi Văn Nhơn1, Trần Thị Hảo1,Hoàng Yến1, Nguyễn Minh Quang2, Lê Đức Minh21Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Da Liễu Hà NộiNghiên cứu được thực hiện trên 167 bệnh nhân ung thư da (nhóm bệnh) và 167 người không ung thư da(nhóm chứng) nhằm phân tích mối liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và bệnh ung thư da. Kết quả chothấy nam giới có nguy cơ mắc ung thư da cao gấp 2 lần nữ giới; hút thuốc lá/thuốc lào có nguy cơ mắc ungthư da cao gấp 2,9 lần so với nhóm không hút; nhóm làm việc ngoài trời nắng có nguy cơ mắc cao gấp 1,7lần so với nhóm không làm việc ngoài trời nắng; thời gian làm việc càng lâu thì nguy cơ mắc ung thư dacàng cao và nhóm tiếp xúc tia X có nguy cơ mắc ung thư da cao gấp 2,5 lần so với nhóm không tiếp xúc.Nghiên cứu này chưa tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố tuổi, nơi ở, học vấn, dân tộc, tiếp xúc hóa chất,nguồn nhiệt cao, chất phóng xạ sóng điện từ với ung thư da. Kết luận: yếu tố làm tăng nguy cơ mắc ung thưda là nam giới, làm việc ngoài trời nắng, hút thuốc, tiếp xúc tia X.Từ khóa: ung thư da, tiếp xúc ánh nắng mặt trời, hút thuốc, tiếp xúc tia XI. ĐẶT VẤN ĐỀước tính có 1,3 triệu người Mỹ mắc ung thưthường gặp hiện nay. Ung thư da gồm nhiềuda, trong đó có 53.000 người mắc ung thư tếbào hắc tố và > 7.000 người chết vì loại ungloại u ác tính xuất phát từ các tế bào biểu môcủa da. Có nhiều loại ung thư da khác nhau,thư này và đến năm 2006 ước tính có khoảngtrên 3,5 triệu bệnh nhân cao gấp gần 3 lần sốnhưng thường gặp nhất là ba loại ung thư datế bào đáy, ung thư tế bào vảy và ung thư tếbệnh nhân năm 2002 [2]. Ở Úc, ung thư dacao gấp 3 lần tổng số các ung thư khác cộngbào hắc tố. Ung thư tế bào đáy và ung thư tếbào vảy đều ở bề mặt, tốc độ phát triển chậmlại và khoảng 1% dân số bị ung thư da. TrongUng thư da là một trong những ung thưvà khả năng chữa lành cao, nhất là khi đượcthời gian 5 năm, ung thư tế bào vảy tăng 50%với tỷ lệ mới mắc từ 166/100.000 dân lênphát hiện sớm. Loại ung thư tế bào hắc tốnặng hơn, ảnh hưởng đến các lớp sâu hơn250/100.000 dân [3]. Ở Châu Âu, tỷ lệ ung thưda cũng rất cao. Ước tính một năm ở Thụy sỹcủa da và có nguy cơ di căn đến các mô kháccao nhất trong các loại ung thư da. Nghiêncó không dưới 15.000 bệnh nhân mới [4]. ỞAnh, tỷ lệ mắc mới ước tính trong thời gian 10cứu của Stern năm 2007 ở Mỹ cho thấy tỷ lệnăm từ 2001 đến 2010 tăng 33%. Một nghiênmắc ung thư da cao gấp năm 5 lần ung thư vúvà ung thư tiền liệt tuyến [1]. Số bệnh nhâncứu mới đây cho thấy tỷ lệ ung thư da củangười châu Á sống ở Singapore năm 2006 làmắc ung thư da ngày một tăng. Năm 20027,4/100.000 dân. Tỷ lệ ung thư biểu mô đáy ởngười Trung Quốc là 18,9/100.000 dân,Địa chỉ liên hệ: Ngô Văn Toàn, Phòng Quản lý Khoa họcCông nghệ, Bộ môn Sức khỏe môi trường, Trường Đạihọc Y Hà NộiEmail: ngovantoan57@yahoo.comNgày nhận: 6/8/2013Ngày được chấp thuận: 30/10/2013TCNCYH 85 (5) - 2013Người Mã Lai là 6,0/100.000 và người Ấn độlà 4,1/100.000 dân [5]. Tuy nhiên, nhữngnghiên cứu về ung thư da còn rất hạn chế. Đaphần các nước ở châu Á là các nước đangphát triển, do hạn chế về kinh tế cũng như sự91TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌCthiếu hiểu biết về ung thư da, nhiều trườnghóa chất độc và 70,8% bệnh nhân ở vùnghợp bị bệnh đã không đến khám và điều trị.nông thôn và vùng duyên hải [8]. Chính vìnhững lý do trên, nghiên cứu được tiến hànhTrong những năm gần đây, số người mắcung thư nói chung và ung thư da nói riêng ởViệt Nam tăng rất nhanh. Theo báo cáo của tổchức phòng chống ung thư quốc tế, số mớimắc ung thư ở nước ta năm 1990 là 52.721và đến năm 2002 con số này đã tăng lên75.150 với tỷ lệ mới mắc năm 2002 là144/100.000 dân. Ngoài một số ung thư phổbiến (ung thư phổi, ung thư cổ tử cung, ungthư vú, dạ dày, đại trực tàng và vòm họng),ung thư da cũng khá thường gặp. Theo ghinhận ung thư ở Hà nội 1992 - 1996 thì tỷ lệmắc ung thư da là 2,9 - 4,5/100 000 dân [6].Tại thành phố Hồ Chí Minh, theo ghi nhậnung thư năm 1997 thì tỷ lệ chuẩn theo tuổichung cho cả hai giới là 3/100 000 dân, xếpvị trí thứ 8 trong 10 loại ung thư thường gặp[7]. Và theo một báo cáo ở Việt Nam, năm2005 - 2006 thì tỷ lệ mới mắc của ung thư dalà 0,2 - 0,4/100.000 dân và tỷ lệ chết do ungthư da trong cùng thời điểm cũng từ 0,2 0,4/100.000 dân.Ung thư nói chung thường do hai yếu tốgen và môi trường gây nên. Các yếu tố nguycơ của ung thư da thường đã được một sốnghiên cứu trên thế giới đề cập là tiếp xúc vớiánh nắng mặt trời, nhiễm độc kim loại nặng,tiếp xúc hóa chất… Xác định được các yếu tốnguy cơ của ung thư da sẽ đề xuất được cácbiện pháp phòng bệnh, phát hiện và điều trịsớm bệnh. Tuy nhiên tại Việt Nam, có rất ítnghiên cứu này với mục tiêu phân tích mốiliên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và ungthư da.II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP1. Đối tượngNhóm bệnh bao gồm những bệnh nhânung thư da được phát hiện tại các bệnh viện ởHà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng cóđầy đủ địa chỉ, chẩn đoán và các thông tin cầnthiết cho nghiên cứu; tự nguyện tham gianghiên cứu. Nhóm chứng: những người cócác đặc trưng cá nhân khá tương đồng vớinhững trường hợp mắc ung thư da về các đặctrưng cá nhân và tiền sử tiếp xúc với các nguycơ của ung thư da nhưng không mắc ung thưda và tình nguyện tham gia nghiên cứu.2. Phương phápThiết kế nghiên cứu: Ung thư da là mộtbệnh hiếm gặp do vậy thiết kế nghiên cứubệnh - chứng là thiết kế nghiên cứu thíchhợp. Việc so sánh tiền sử tiếp xúc với yếu tốnguy cơ giữa 2 nhóm bệnh và nhóm chứngsẽ cho thấy yếu tố nào là yếu tố nguy cơ củaung thư da.Mẫu nghiên cứuCỡ mẫu: cỡ mẫu nghiên cứu trong nhómbệnh được tính theo công thức sau:nghiên cứu về vấn đề này. Nếu có thì cũng chỉlà những nghiên cứu với cỡ mẫu nhỏ và khutrú tại một bệnh viện như n ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Ung thư da Tiếp xúc ánh nắng mặt trời Tiếp xúc tia X Tiền sử gia đình với ung thư da Tia X và ung thư da Chất phóng xạ với ung thư da Hóa chất với ung thư da Ánh nắng mặt trời và ung thư daGợi ý tài liệu liên quan:
-
8 trang 37 0 0
-
Cách phòng và điều trị bệnh ung thư
321 trang 26 0 0 -
Kem chống nắng dùng thế nào cho hiệu quả?
6 trang 22 0 0 -
3 trang 18 0 0
-
800 người chết mỗi năm vì tắm trắng
5 trang 18 0 0 -
Nước giải khát có chứa chất gây ung thư da và ung thư máu
5 trang 18 0 0 -
Các chất tẩy rửa có thể gây ung thư da
3 trang 17 0 0 -
5 trang 15 0 0
-
9 trang 15 0 0
-
Cải tiến phương pháp học sâu cho tác vụ phân loại ảnh và ứng dụng cho bài toán chẩn đoán ung thư da
3 trang 15 0 0 -
Trường hợp ca bệnh ung thư tuyến mồ hôi
5 trang 15 0 0 -
Một số hình ảnh lâm sàng trong ung thư da: Phần 2
40 trang 15 0 0 -
7 trang 15 0 0
-
5 trang 15 0 0
-
7 trang 13 0 0
-
6 trang 13 0 0
-
8 điều nên biết trước khi phẫu thuật nâng ngực
7 trang 13 0 0 -
Bệnh da ở bệnh nhân sau ghép tạng
6 trang 13 0 0 -
Tinh dầu từ cây chè có thể chữa bệnh ung thư da
7 trang 13 0 0 -
Đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của ung thư biểu mô tế bào đáy ở da
7 trang 12 0 0