Danh mục

Một cái nhìn gây bối rối và ngạc nhiên

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 169.63 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (13 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chúng ta không biết ai đã phát minh ra kính mắt, phát minh thế nào và ở đâu. Chúng ta chỉ biết đại khái nó được phát minh một cách tình cờ và bởi những người thường chứ không phải những nhà nghiên cứu về quang học. Bước nhảy vọt từ quan sát bằng mắt thường tới quan sát nhờ dụng cụ sẽ là một trong những bước tiến lớn trong lịch sử của hành tinh. Nhưng không ai đã có chủ ý phát minh ra kính viễn vọng. Một trong những thành kiến ăn rễ sâu và phổ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một cái nhìn gây bối rối và ngạc nhiên Những phát hiện về vạn vật và con người Một cái nhìn gây bối rối và ngạc nhiên Chúng ta không biết ai đã phát minh ra kính mắt, phát minh thếnào và ở đâu. Chúng ta chỉ biết đại khái nó được phát minh một cáchtình cờ và bởi những người thường chứ không phải những nhà nghiêncứu về quang học. Bước nhảy vọt từ quan sát bằng mắt thường tới quan sát nhờ dụng cụsẽ là một trong những bước tiến lớn trong lịch s ử của hành tinh. Nhưngkhông ai đã có chủ ý phát minh ra kính viễn vọng. Một trong những thànhkiến ăn rễ sâu và phổ biến nhất của con người là niềm tin vào các giác quantự nhiên của con người mà không cần dùng đến dụng cụ. Chúng ta không biết ai đã phát minh ra kính mắt, phát minh thế nào vàở đâu. Chúng ta chỉ b iết đại khái nó được phát minh một cách tình cờ và bởinhững người thường chứ không phải những nhà nghiên cứu về quang học.Có lẽ một người thợ làm kính đã lớn tuổi trong khi chế tạo nh ững chiếc đĩabằng kính để gắn cửa sổ đã thử những chiếc đĩa đó và khi nhìn vào ông đãmừng rỡ nhận ra mình có thể nhìn thấy rõ hơn. Chúng ta có thể tin rằng nhàphát minh không phả i thuộc giới trí thức, vì thời đó các giáo sư thường khoekhoang về những phát minh của mình, thế mà trước thế kỷ 13 chúng ta lạichưa từng thấ y có tài liệu nào ghi nhận về một nhà phát minh tự xưng đã làmra kính viễn vọng. Từ những tài liệu được ghi lại trước năm 1300 cho tới tiệcphát minh ra kính viễn vọng gần ba trăm năm sau đó, các nhà học giả đềukhông biết gì về thấu kính. Có rất nhiều lý do cắt ngh ĩa điều này. Người tabiết rất ít về lý thuyết khúc xạ ánh sáng. Tiếc thay, một số ít ỏi các nhà vật lýham tìm tòi đã không nghiên cứu về khúc xạ bằng những mặt thấu kính congbình thường, nhưng lại bị mê hoặc bởi các hình thù hoàn hảo là hình tròn vàhình cầu. Họ bắt đầu nghiên cứu khúc xạ trong mộ t quả cầu hoàn hảo bằngkính, khiến tạo ra những quang sai phức tạp nhất và thực tế đã không manglại cho họ kết quả nào. Khi tìm hiểu những hiệu ứng của thấu kính, các nhà triết học thiênnhiên bị cản trở vì những lý thuyế t của họ về ánh sáng và thị giác. Từ nhữngthời xa xưa, suy tư của các nhà triết học tây phương đã bị hướng về cáchngười ta thấ y thế nào hơn là về chính bản chất của ánh sáng như là một hiệntượng vật lý. Các triết gia Hi Lạp c ổ cho rằng thị giác là một quy trình hoạtđộng của con mắt sống động của một người, chứ không phải sự ghi lại thụđộng những ấn tượng từ bên ngoài. Thuyết phố i cảnh của Eculid lấy mắt chứkhông phải vật được nhìn làm đ iểm gốc của các đường viễn cảnh. Plato vàcác triết gia trường phái Pythagoras mô tả việc nhìn xem như là một quitrình phát tỏa từ con mắt một cách nào đó bao trùm lấy vật thể được nhìn.Ptolêmê cũng chia sẻ quan điểm này. Ngược lại, Democritus và các triết giatrường phái nguyên tử cho rằng vật thể được nhìn phát tỏa ra các luồngnguyên tử và sự phát tỏa này một cách nào đó đập vào mắt và tạo ra ảnh.Nhưng nhà giả i phẫu phương tây Galen nêu lên vấ n nạn của nhận th ức thôngthường rằng những hình ảnh lớn, ví dụ như ảnh của một quả núi, không thểnào thu nhỏ được để đi vào đồ ng từ nhỏ xíu của mắt. Hơn nữa, các triết gianguyên tử cũng không thể cắt nghĩa đ ược làm sao mộ t vật có thể tạo ra vô sốphân tử để có thể đ i đến mắt của hàng trăm hàng ngàn ngườ i cùng thấy vậtđó đồng thời. Và Galen đã khai triển một lý thuyết dung hòa là liên kết vớichức năng sinh lý của mắt. Ngoài ra, việc nghiên cứu quan học hay sử dụng dụng cụ để trợ giúpmắt thường cũng còn gặp những trở ngạ i về tôn giáo. Thần h ọc chịu ảnhhưởng mạnh của nhận th ức thông thường và truyền thống dân gian. Conngười có mắt để làm gì nếu chính mắt không biết được hình thù, kích thướcvà màu sắc thực sự của ngoại vật? Hơn nữa, chẳng phải những dụng cụ nhưgương, lăng kính và thấu kính thường làm sai lạc thị giác đó sao? Và nhữngdụng cụ nhân tạo để làm ra nhiều, phản chiếu, khuyếch đạ i hay thu nhỏ vànhân đôi hay đảo ngược các hình ả nh th ị giác đã được sử dụng để làm méomó sự thật hay sao? Các tín h ữu sùng đạo và các triết gia không đời nào chịuđụng chạm tớ i những dụng cụ lừa đảo đó. Thế nhưng một số ngườ i th ực tiễn vẫn tiếp tục tiến tớ i. Họ thích đeocặp kính trên sống mũi, đơn giản vì nó giúp họ thấy rõ hơn. Công dụng đầutiên của kính mắt có lẽ là để chữa tật viễn th ị, khuyế t tật của th ị giác ở tuổigià do việc thủy tinh thể bị chai cứng làm cho mắt không thể tập trung sắcnét vào những vật ở gần. Hồi đầu thế kỷ 14, trong danh mục bất động sảncủa một vị giám mục ở Florence có liệt kê “một cặp kính mắt có gọng mạbạc”. Ở Venice vài khoảng 1300, nghề làm kính mắt đã khá phổ biến khiếncho đã có một luật chống lạ i những thợ kính đánh lừa khách hàng bằng cáchtuyên bố họ bán cho khách hàng kính bằng pha lê thật, đang khi thực sự chỉlà kính thủy tinh. Petrarch (1304-1374) trong tác phẩ m tự thuật Thơ ...

Tài liệu được xem nhiều: