Trong bài báo này, chúng tôi trình bày kết quả thực nghiệm về các khó khăn của sinh viên của ba trường: Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Sài Gòn và Đại học Đồng Nai khi giải quyết kiểu nhiệm vụ xét tính đóng, mở của một tập trong không gian mêtric. Các khó khăn này sinh ra bởi chướng ngại tri thức luận gắn liền với việc xây dựng khái niệm tập mở, tập đóng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một nghiên cứu thực nghiệm về các khó khăn liên quan đến việc học khái niệm tập mở, tập đóng trong không gian mêtric
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION
TẠP CHÍ KHOA HỌC
JOURNAL OF SCIENCE
KHOA HỌC GIÁO DỤC
EDUCATION SCIENCE
ISSN:
1859-3100 Tập 16, Số 1 (2019): 73-84
Vol. 16, No. 1 (2019): 73-84
Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website: http://tckh.hcmue.edu.vn
MỘT NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ CÁC KHÓ KHĂN
LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC HỌC KHÁI NIỆM TẬP MỞ, TẬP ĐÓNG
TRONG KHÔNG GIAN MÊTRIC
Nguyễn Ái Quốc, Lê Minh Tuấn
Trường Đại học Sài Gòn
Tác giả liên hệ: Email: nguyenaq2014@gmail.com
Ngày nhận bài: 14-5-2018; ngày nhận bài sửa: 12-7-2018; ngày duyệt đăng: 17-01-2019
TÓM TẮT
Trong bài báo này, chúng tôi trình bày kết quả thực nghiệm về các khó khăn của sinh viên
của ba trường: Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Sài Gòn và Đại học Đồng Nai
khi giải quyết kiểu nhiệm vụ xét tính đóng, mở của một tập trong không gian mêtric. Các khó khăn
này sinh ra bởi chướng ngại tri thức luận gắn liền với việc xây dựng khái niệm tập mở, tập đóng
như quá trình khái quát hóa khoảng mở, đóng của
và bởi ảnh hưởng của mối quan hệ thể chế
Toán đại học đối với tập mở và tập đóng.
Từ khóa: chướng ngại tri thức luận, khó khăn, không gian mêtric, tập đóng, tập mở.
1.
Mở đầu
1.1. Định nghĩa tập mở, tập đóng trong ba thể chế Toán đại học
Tập mở, tập đóng là hai khái niệm cơ bản của không gian mêtric và không gian tôpô.
Hai khái niệm này được tiếp cận bằng ba cách khác nhau trong thể chế Toán đại học của ba
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSPTPHCM), Đại học Sài Gòn
(ĐHSG) và Đại học Đồng Nai (ĐHĐN).
Thể chế Toán của Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Trong thể chế Toán của ĐHSPTPHCM, khái niệm tập mở và tập đóng chỉ xuất hiện
trong giáo trình Tôpô đại cương và được định nghĩa theo lân cận:
“Một tập hợp con U của
được gọi là mở nếu với mỗi x U, tồn tại một số thực
dương sao cho O (x) U.” (Trần Tráng, 2005, tr. 44)
“Một tập hợp con của
được gọi là đóng nếu nó là phần bù của một tập hợp con
mở trong .” (Trần Tráng, 2005, tr. 48)
Thể chế Toán của Đại học Sài Gòn
Trong thể chế Toán của ĐHSG, khái niệm tập mở và tập đóng xuất hiện trong giáo
trình “Giải tích hàm” và được định nghĩa theo hình cầu mở:
“Cho không gian mêtric (X, d). Với tập con A X , ta nói A là một tập mở (trong X)
nếu ứng với mỗi x A , tồn tại r > 0 sao cho B ( x,r ) A . Nếu X \ A là một tập mở, ta nói
A là một tập đóng (trong X). (Đặng Đức Trọng, 2011, tr. 10)
73
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM
Tập 16, Số 1 (2019): 73-84
Thể chế Toán của Đại học Đồng Nai
Trong thể chế Toán của ĐHĐN, khái niệm tập mở và tập đóng xuất hiện trong giáo
trình “Cơ sở lí thuyết hàm và Giải tích hàm” và được định nghĩa theo phần trong:
0
“ Cho A là một tập con của không gian mêtric X. Ta nói A là tập mở nếu A A .
0
Hay có thể nói A mở khi và chỉ chi A A .
Ta nói tập con A là đóng nếu X \ A là mở.” (Nguyễn Văn Khuê, 2001, tr. 18)
1.2. Một số ghi nhận và giả thuyết nghiên cứu
Ghi nhận thực tế
Việc xây dựng khái niệm tập mở, tập đóng như quá trình khái quát hóa của các
khoảng mở, khoảng đóng của đường thẳng thực
trong không gian mêtric có thể dẫn đến
một số khó khăn về việc hiểu hai khái niệm này. Thật vậy, trong hai tháng 9 và 10/2017,
Nguyễn Ái Quốc (2018a) đã tiến hành một thực nghiệm khảo sát dưới dạng phỏng vấn trực
tiếp trên 10 sinh viên năm thứ ba ngành Sư phạm Toán của Trường ĐHSPTPHCM,
ĐHSG, ĐHĐN và Đại học Khoa học Tự nhiên về định nghĩa khái niệm tập mở. Kết quả
khảo sát cho thấy ở các sinh viên này có ba cách xác định một tập mở trong không gian
mêtric: định nghĩa hình thức, sử dụng khái niệm biên, và tập mở được thể hiện bằng hợp
các quả cầu mở. Các quan niệm này ở sinh viên khá chênh lệch so với các định nghĩa chính
thức.
Kết quả phân tích tri thức luận
Mặt khác, qua phân tích tri thức luận lịch sử, Nguyễn Ái Quốc (2018a) xác định
được một đặc trưng quan trọng trong quá trình xây dựng khái niệm tập mở, tập đóng:
Đặc trưng về cấp độ thể hiện khái niệm: Cấp độ cụ thể trên đường thẳng thực, cấp độ
khái quát trong không gian Euclide n chiều, cấp độ trừu tượng hóa trong không gian
Lesbesgue, không gian mêtric và không gian tôpô, tiên đề hóa trong không gian các lân cận
và trong không gian tôpô.
Từ đó, Nguyễn Ái Quốc (2018) xác định chướng ngại tri thức luận đối với SV khi
lần đầu tiếp cận khái niệm tập mở, tập đóng: sự khái quát khái niệm tập mở từ đường thẳng
thực vào không gian Euclide n chiều, và từ không gian Euclide n chiều sang không gian
tôpô trừu tượng và không gian mêtric tổng quát.
Kết quả phân tích thể chế Toán
Phân tích thể chế Toán của ba trường trên cho thấy sự tồn tại năm kiểu nhiệm vụ
(KNV) liên quan đến tập mở, tập đóng như sau:
+ TCMM-ĐN: Chứng minh tập mở dựa trên định nghĩa;
+ TCMĐ-ĐN: Chứng minh tập đóng dựa trên định nghĩa;
+ TXTĐM-ĐN: Xét tính đóng, mở của một tập bằng định nghĩa;
+ TXĐM-KNLQ: Xét tính đóng, mở dựa trên cá ...