Danh mục

Mức độ lành mạnh tài chính của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 2011 – 2014

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 395.63 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết trình bày tổng quan chung về hoạt động của hệ thống ngân hàng; Đánh giá mức độ lành mạnh của các NHTM Việt Nam thông qua một số chỉ tiêu tài chính; Một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao mức độ lành mạnh của các NHTM.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mức độ lành mạnh tài chính của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 2011 – 2014 14 MỨC ĐỘ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2014 An Hải Anh, K15-TCD Tạ Thị Huệ, K15-TCB I. Tổng quan chung về hoạt động của hệ thống ngân hàng Sau 23 năm đổi mới và phát triển, hệ thống ngân hàng Việt Nam là đầu tàu thúc đẩy tiến trình đổi mới và phát triển của hệ thống tài chính hướng tới xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, đi tiên phong trong quá trình mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế. Từ hệ thống ngân hàng một cấp rồi hai cấp ban đầu chỉ có 4 NHTM nhà nước hoạt động hạn chế về quy mô tài chính, dịch vụ, hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ về số lượng, quy mô tài chính và các loại hình dịch vụ hoạt động. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay có cấu trúc rất đa dạng về loại hình sở hữu (nhà nước, tập thể, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, cổ phần) và đa dạng hóa về loại hình (NHTM, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô). Đến năm 2014 tại Việt Nam có 38 NHTM trong đó 5 NHTM nhà nước và 33 NHTM cổ phần, nhóm NHTM nhà nước đồng thời cũng là nhóm gồm 4 ngân hàng với vốn điều lệ lớn nhất hệ thống, đều trên 20 nghìn tỷ đồng (Agribank, BIDV, VietinBank và Vietcombank) duy chỉ có Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB) là ngân hàng quy mô nhỏ, tại các ngân hàng này, Nhà nước vẫn nắm đa số cổ phần. Nhóm NHTM cổ phần có 4 ngân hàng có vốn điều lệ từ 10 nghìn - 20 nghìn tỷ (MBBank, SCB, Sacombank, Eximbank), 13 ngân hàng có vốn điều lệ từ 5 - 10 nghìn tỷ đồng, số còn lại có vốn điều lệ dưới 5 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, hệ thống còn bao gồm 6 ngân hàng liên doanh, 66 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng nước ngoài, khoảng 30 công ty tài chính và cho thuê tài chính, hơn 1.000 quỹ tín dụng. Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm 15 nghèo, cải thiện an sinh xã hội. Với quy mô và vai trò quan trọng như vậy, lành mạnh tài chính của hệ thống ngân hàng là nhân tố quan trọng đối với sự ổn định hệ thống tài chính quốc gia và kinh tế vĩ mô. Song song với sự lớn mạnh không ngừng về quy mô, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn bộc lộ nhiều điểm yếu như: hoạt động giám sát cảnh báo rủi ro còn hạn chế, tính minh bạch chưa cao, sở hữu chéo ngày càng trở nên phức tạp tại các ngân hàng thương mại, thông tin công bố còn chưa bám sát thực tế khiến cho nhà đầu tư, người vay tiền gặp khó khăn trong việc ra quyết định, các ngân hàng cạnh tranh chưa lành mạnh chủ yếu cạnh tranh thông qua lãi suất, tỷ giá… và trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay những bất cập này càng bộc lộ rõ nét hơn. Các NHTM chật vật giải quyết nợ xấu khổng lồ do đóng băng bất động sản và hoạt động trì trệ của các doanh nghiệp gây ra, hàng loạt các ngân hàng tuyên bố phá sản, giải thể, hoạt động mua bán và sáp nhập ngân hàng diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết nhằm cứu cánh cho các ngân hàng đang trên thời kỳ lao dốc, thực hiện áp chỉ tiêu để trả lương nhân viên như chỉ tiêu về mở tài khoản, huy động vốn hàng tháng… Cùng với sự điều hành của NHNN, các NHTM đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm khơi thông tín dụng, khuyến khích cho vay và ban đầu thu được một vài tín hiệu tích cực nhưng xét về dài hạn, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là giải pháp tối ưu nhất để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các ngân hàng phát triển ổn định, bền vững. Đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng bao gồm 3 nội dung chính là: nâng cao vai trò điều tiết thị trường tiền tệ của NHNN, củng cố và nâng cao hiệu lực và hiệu quả của thanh tra giám sát của cơ quan quản lý, lành mạnh hóa ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác mà trong đó lành mạnh hóa NHTM được coi là trọng tâm. Mục tiêu của đề án này là: đến năm 2020 hệ thống ngân hàng Việt Nam về cơ bản phát triển theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả có khả năng cạnh tranh lớn dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, quản trị ngân hàng được tiến hành phù hợp với thông lệ quốc tế. Đặc biệt trong giai đoạn 2011 – 2015 đề án tập trung lành mạnh hóa tài chính các NHTM, nâng cao trật tự kỉ cương trong hoạt động ngân hàng. 16 II. Đánh giá mức độ lành mạnh của các NHTM Việt Nam thông qua một số chỉ tiêu tài chính Hình 2.1: Biểu đồ tỷ lệ vốn tự có với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: