Danh mục

Nấm Mối Mũ Nhỏ

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 118.36 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hình thái: Nấm có dạng chuông với chóp nhọn gồ lên ở đỉnh, có lông mịn, sau đó hình nón dẹp, mép mũ rách ra và chia thuỳ. Mũ có màu trắng nhạt hoặc xám nhạt, phần đỉnh có màu sẫm hơn. Kích thước mũ 1-3 cm. Thịt nấm màu trắng, mỏng, có mùi thơm đặc trưng của nấm. Sợi nấm không có khoá. Phiến nấm tự do, xếp xít nhau, dày 1-2 mm, màu trắng, dài ngắn không đồng đều, phần mép hơi có dạng răng. Cuống ở giữa, màu trắng, đặc, cao mảnh khảnh, kích thước 2-6 cm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nấm Mối Mũ Nhỏ Nấm Mối Mũ Nhỏ Hình thái: Nấm có dạng chuông với chóp nhọn gồ l ên ở đỉnh, có lông mịn, sauđó hình nón dẹp, mép mũ rách ra và chia thuỳ. Mũ có màu trắng nhạt hoặcxám nhạt, phần đỉnh có màu sẫm hơn. Kích thước mũ 1-3 cm. Thịt nấm màutrắng, mỏng, có mùi thơm đặc trưng của nấm. Sợi nấm không có khoá. Phiếnnấm tự do, xếp xít nhau, dày 1-2 mm, màu trắng, dài ngắn không đồng đều,phần mép hơi có dạng răng. Cuống ở giữa, màu trắng, đặc, cao mảnh khảnh,kích thước 2-6 cm chiều cao: 1,5-3 mm chiều rộng; hơi có khía dọc. Phầngốc cuống hơi phình dạng củ, không có rễ giả. Đảm hình chuỳ, kích thước20-25 x 6,5-8 µm có 4 bào tử. Bào tử nhẵn, hình elíp đến hình trứng. trongsuốt, khi tụ lại thành đảm có màu hồng xám. Bụi bào tử có sắc thái hồng. Phân bố: - Việt Nam: Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang,Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng (huyện đảo CátBà), Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Lâm Đồng,Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh. - Thế giới: Sri-lanka, Ấn Độ, Lào, Campuchia, Thái Lan, miền NamChâu Phi. Các thông tin khác: Nấm chưa được phân lập để nuôi trồng. Nấm mọc thành đám dàyđặc quanh nhà, ven đường đi, công viên, trên tổ mối ở trong rừng và venrừng. Ngoài ra còn gặp trên tổ mối ở độ cao 400 m của vườn Quốc gia Ba V ì– Hà Tây. Nấm thường xuất hiện vào thời gian đầu hè, khi trên bầu trời xuấthiện chùm sao tua rua. Do đó có tên là nấm tua rua. Nấm mối mũ nhỏ là loạinấm sớm nở tối tàn. Vì vậy, khi muốn tìm thu hái cần phải đi sớm. Do nấmcó kích thước nhỏ mọc thành đám dày đặc, nếu hái đơn chiếc sẽ rất lâu. Vìvậy cần nhổ từng đám, sau đó đem về nh à bỏ phần gốc dính đất, rửa sạch,chế biến món ăn. Đồng bào dân tộc Tày, Dao ở Thái Nguyên, Bắc Kạn thu hái nấm đểnấu canh trong bữa ăn. Khi ăn có vị ngọt của đạm. Để so sánh sự ngọt ngàokhi ăn nấm vuốt, tương phản lúc bị đau khi gai hèo đâm vào chân, nhân dânvùng Đại Từ, Phú Lương (Thái Nguyên) đã có câu: Ngọt như nấm vuốt,buốt như gai hèo, cây hèo (Daemonoro sp.) thuộc họ Palmae. Sau khi thuhái, người dân đem về nhà chế biến để ăn. Vì vậy không lưu hành trên thịtrường. Nấm Tràm Hình thái: Nấm lúc non có dạng hình cầu, sau đó dạng bàn dẹp và lúc trườngthành trải phẳng. Mũ có màu nâu tím nhạt. Mặt mũ thường khô, nhưng khibị ướt thì nhảy nhớt, láng bóng. Ngâm trong dung dịch formaldehyt có màugan gà, đường kính mũ từ 2-10 cm hoặc rộng hơn. Thịt nấm vị đắng, có màutrắng, không đổi màu khi bị tổn thương, khi tiếp xúc với KOH hoặc NH4OHthì chuyển màu vàng xám, trong dung dịch HNO3 không đổi màu. Phần lớp sinh sản là ống nấm ở dưới mặt mũ, lúc non có màu trắngngà, khi già chuyển màu vàng, vàng da cam đến màu tím hồng nhạt, ốngnấm không tròn, có góc cạnh, dài 3-13 mm, dễ tách khỏi phần thịt mũ.Cuống có màu vàng xám đến vàng nâu, ở giữa, chắc đặc, hình trụ thấp, dài3-11 cm, rộng 1-27 mm, phần gốc hơi phình ra. Quanh cuống hơi có dạngmạng, phần trong cuống đồng màu với thịt mũ, không đổi màu khi bị tổnthương. Sợi nấm không có khoá. Đảm hình chuỳ. Bào tử hình elíp, dài 6-9x3,5-5 µm, nhẵn, có màu vàng xám, không đổi màu trong dung dịch KOH,không có tinh bột. Bụi bào tử có màu nâu xám đến nâu đỏ. Phân bố: - Việt Nam: Ở các tỉnh có trồng rừng tràm từ Thừa Thiên - Huế đếnĐồng Nai, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu. - Thế giới: Trung quốc, Nhật Bản; Châu Âu: Pháp, ltaly; Hoa Kỳ. Các thông tin khác: Hàng năm, khi vào thu, ở Huế thường có những cơn mưa chuyểnmùa, mà người dân ở đây thường gọi là mưa nấm tràm, bởi sau những cơnmua thu ấy, thì các rừng tràm ở Huế nấm tràm đua nhau mọc. Nấm thườngmọc thành từng đám, từng cụm chủ yếu dưới tán cây Tràm (Melaleucaleucađendron), ngoài ra còn mọc dưới tán cây bạch đàn (Eucalyptuscamadulensis) hoặc ở những vùng đất có độ pH thấp. Khi mùa nấm đến, ởvùng núi Ngự Bình người dân nô nức đi hái nấm. Loài nầm này hình thànhrễ nấm ngoại dinh dưỡng cộng sinh bắt buộc với các cây tràm, cây bạch đàn. Hiện nay nấm tràm chưa được phân lập để nuôi trồng, nhân dânthường thu hái nấm tràm mọc tự nhiên. Đến mùa nấm tràm, trong bữa cơmgia đình ở Huế thường có món nấm tràm, khi đã biết ăn nấm tràm thì rấtthích, bởi vị đắng nhưng ngọt của nấm tràm khiến người ăn khó quên. Thuhái nấm về, bóc hoặc dùng dao cắt bỏ lớp vỏ ngoài ở phần mũ và cuống, nếunấm già cần gọt bỏ phần mặt ống. Sau đó, ngâm với nước muối, vắt bỏ nướcmặn và rửa nước nhiều lần, nấu canh với lá khoai lang hoặc lá lốt. Cháo nấmtràm cũng được người dân cố đô Huế rất thích, những người Huế xa quê baogiờ cũng nhớ đến món nấm tràm-một nét ẩm thực của xứ Huế. Trong nấmtràm có vị rất đắng như mướp đắng hoặc mật của động vật, nhưng người dânđịa phương cho biết ăn nấm tràm thì mát, dễ tiêu hoá, giúp ngủ ngon. Ngoàira nấm tràm còn có dược tính để trị bệnh gan và tẩy giun. Đến mùa nấmtràm, hầu như tất cả các quán cơm ở chợ Đông Ba, An Cựu (thành phố Huế)đều có món ăn nấm tràm. Nấm tràm thường ăn tươi, nhưng nếu thu hái đượcnhiều thì phơi hoặc sấy khô để dùng dần. ...

Tài liệu được xem nhiều: