Danh mục

NẠN KIÊU BINH THỜI LÊ-TRỊNH _1

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 143.52 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Một hôm, quân lính họp nhau, đem việc đón rước hoàng tôn (Duy Kỳ) ở nhà giam ra tâu lên hoàng thượng, để xin được ban ơn. Nhà vua (Lê Hiển Tông) liền sai người làm tiệc thết đãi, rồi từ từ bàn đến cách thưởng công cho họ
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NẠN KIÊU BINH THỜI LÊ-TRỊNH _1NẠN KIÊU BINH THỜI LÊ-TRỊNHMột hôm, quân lính họp nhau, đem việc đón rước hoàng tôn (Duy Kỳ)ở nhà giam ra tâu lên hoàng thượng, để xin được ban ơn. Nhà vua (LêHiển Tông) liền sai người làm tiệc thết đãi, rồi từ từ bàn đến cáchthưởng công cho họ. Lúc đó, có kẻ chạy đi báo tin với chúa (TrịnhKhải). Chúa cho đòi ngay Nguyễn Khản [5], Dương Khuông vào phủ.Sau khi nghe ý kiến của hai cận thần, Chúa bèn sai viên đầu hiệu độiNhưng Nhất là Triêm vũ hầu (Nguyễn Triêm) đem đội quân Phong vânđến vây bắt được bảy người.Sau đó, theo sách Lê quý dật sử, thì:Triều đình bàn xét nếu đem giết hết e sẽ gây ra biến loạn. Nếu khônggiết thì không lấy gì răn đe được. (Dự tính) trước tiên đem chém mộthai tên đầu sỏ gian ác để dần dần ức chế tính kiêu ngạo của chúng.Bấy giờ trong triều có Tham tụng Nguyễn Khản, Quản trung cơNguyễn Khuông (cậu chúa Trịnh Khải) mới được cất nhắc, vốn ghétquân sĩ không phục mình, đã chiếu theo luật: “lẻn vào hoàng thành”xử tội chém hết để răn quân lính.Được sáu ngày, quân sĩ lại gây bạo loạn. Họ gào thét xông thẳng vàophủ chúa, tìm giết Khản và Khuông. Khản trốn về trấn Sơn Tây,Khuông nấp mình trong phủ chúa. Mẹ chúa là Dương Thị bước ra phủđường khóc kêu xin tha cho Khuông. Chúa lại cho nhiều tiền bạc đểchuộc cho cậu, quân sĩ mới chịu kéo trở về đập phá nhà riêng củaKhản, Khuông. Hôm sau, quân lính lại đòi đem Nguyễn Triêm giết điđể hả giận riêng. Chúa không có cách nào nữa, vời Triêm đến lấy lờilẽ yên nước, yên nhà ra bảo; lại cho dân một xã thờ cúng, ruộng thếnghiệp 30 mẫu, rồi sai Triêm ra chịu chết.[6]Ở Sơn Tây, Nguyễn Khản cùng với em mình là Nguyễn Điền đang làmquan ở đó, bí mật dâng tờ khải lên chúa, xin mộ nghĩa sĩ tứ trấn đểgiết kiêu binh. Nghe kế ấy, chúa ban chiếu cho phép.Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí, thì:Trong đám kiêu binh có kẻ biết mưu của chúa, liền mắng chúa và cửlính canh giữ phủ chúa rất ngặt. Chúa sai người ra báo lại với các trấnhoãn ngày khởi sự, nhưng chưa đến kịp thì các đạo theo đúng hẹn cũđã rầm rộ kéo quân lên đường. Thiên hạ cực kỳ náo động. Hào kiệtcác nơi đồng thời nổi dậy, ai ai cũng nói phải tiêu diệt hết kiêu binh.Ngày hôm đó, hết thảy kiêu binh hai xứ Thanh Nghệ đóng ở các trấnđều phải bỏ trốn, lúc đi qua làng mạc chúng không dám lên tiếng. Hễkẻ nào buột miệng lòi ra thổ âm Thanh Nghệ, tức thì bị dân chúng bắtgiết ngay. Bọn chúng phải luôn luôn giả cách làm người câm, ăn xin ởdọc đường, rồi lần mò về kinh, báo cho đám kiêu binh ở đây biết cáitin nay mai quân các trấn sẽ về họp ở dưới thành.Được tin này, bọn kiêu binh ở kinh tức thì họp nhau bàn cách chốngcự. Rồi họ chia nhau thành các đạo kéo đi. Nhưng đạo phía Tây mớikéo ra đến Đại Phùng, đạo phía Bắc mới kéo đến cầu Vịnh thì đã bịngay các tay thổ hào địa phương đánh thua. Họ phải bỏ cả khí giới, cốmang vết thương mà chạy về kinh.Bấy giờ kinh thành chấn động, dân hàng phố kẻ chợ đều dắt díu bồngbế nhau ra ngoài thành chạy trốn. Đám kiêu binh vừa sợ vừa tức, gọichúa là giặc. Rồi họ kéo vào trong phủ, lấy hết binh khí, chia cho cơđội các dinh nắm giữ. Phủ chúa lúc ấy không còn một tấc sắt nào đểtự vệ...[7]Sau có quan tham tụng là Bùi Huy Bích dỗ dành mãi mới dần dần hơiyên. Tháng 5 năm Cảnh Hưng 47 (1786), quân Tây Sơn tiến nhanh raBắc. Đình thần nhà Lê - Trịnh bàn việc sai tướng đem quân vào chốngngăn. Nhưng ưu binh lúc này đã quen thói kiêu căng, rất sợ chinhchiến, nên lấy cớ đòi tiền lương, để chần chừ không chịu tiến quân,khiến trong kinh thành càng xôn xao dữ, ai nấy đều tính kế tháochạy.[8]Ngày mồng 6 tháng 6 năm Bính Ngọ (1 tháng 7 năm 1786)quân của Nguyễn Hữu Chỉnh đến Vị Hoàng (Nam Định). Nguyễn Huệđến hợp quân với Chỉnh rồi cùng tiến ra Thăng Long. Quân Tây Sơn điđến đâu, quân Trịnh tan tác đến đó, nạn kiêu binh kể như chấm dứtcùng sự sụp đổ của họ Trịnh.Trong văn họcTrong sách Hoàng Lê nhất thống chí ở hồi hai và ba, có nhiều đoạn kểkhá tỉ mỉ nạn kiêu binh. Nhờ tác giả[9]là người đã sống trong thời đạihỗn loạn ấy, nên chúng có giá trị lịch sử & hiện thực cao. Trong bàigiới thiệu tác phẩm này, Kiều Thu Hoạch có đoạn nói đến nạn kiêubinh như sau:Trịnh Sâm thì hoang dâm, xa xỉ. Vua Lê Cảnh Hưng thì bù nhìn, bạcnhược. Trịnh Tông chỉ là con rối của đám kiêu binh. Còn quan lại đaphần là một phường dung tục, bất tài, chỉ rình rập cơ hội để tranhgianh giành quyền lực, danh lợi...Dưới những vua quan như vậy, thìbinh lính đương nhiên cũng không thể có kỷ cương, phép tắc gì.Những ưu binh đã biến thành kiêu binh ngang ngược, quay lại uyhiếp triều đình, quấy nhiễu dân chúng, tùy ý phá nhà, giết người,khiến mọi người đã phải gọi chúng là quân bất trị. Và ba chữ ấy đãtrở thành nỗi khủng khiếp của một thời.[10]Giai đoạn thời Lê mạt, trong đó có nạn kiêu binh, cũng là đề tài yêuthích của nhà văn Nguyễn Triệu Luật. Ông đã viết ba tác phẩm cùngchủ đề này, đó là: Bà chúa Chè (Tân Dân - Hà Nội, 1938), Loạn Kiêubinh (Tân Dân - Hà Nội, 1939) và Chúa Trịnh Khải (Tân Dân - Hà Nội,1940).Hoàng giáp Bùi Dương lịch, buồn vì nạn kiêu binh, có làm bài thơ kýsự rằng:Sóc súy tiêu tao tuyết vũ phân,Nan tương thử ý vấn đông quân.Biên thành hà sách đoan quân ngũ,Long miếu vô quyền thúc loạn quân.Lữ kế bách tuyền tư bất mị,Ngoa ngôn thôi hậu thích như phần.Nam quy tự tín càn khôn khoát,Tùng lĩnh, Nam Sơn đa bạch vân.Dịch nghĩa:Gió bấc thổi mưa rơi như tuyết trông cảnh vật tiêu điều,Khó đem ý ấy hỏi chúa xuân.Nơi biên thành có kế gì đoàn kết quân dân,Triều đình không còn quyền hành để kiềm chế loạn quân.Mưu kế của kẻ lữ khách bức bách không sao ngủ được,Nghe lời ngoa truyền phía sau mà lòng như lửa đốt.Trở về Nam tự tin trời đất rộng,Núi Tùng Lĩnh, núi Nam Sơn đều phủ nhiều mây trắng.[11]Bàn về nạn kiêu binh, sách Việt sử tân biên, quyển 3, có đoạn nhưsau:Riêng nạn kiêu binh lộng hành; ngai vàng, nghiệp chúa của vua Lêchúa Trịnh cũng đủ đổ, huống hồ vua chúa và quan lại cũng hư hèn.Buổi đầu, kiêu binh có ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: