Năng lực và vai trò đổi mới của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 558.67 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết tập trung luận bàn về các khái niệm đổi mới, năng lực đổi mới và vai trò của đổi mới; Đánh giá năng lực đổi mới của Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị giúp nâng cao năng lực đổi mới.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Năng lực và vai trò đổi mới của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 32 NĂNG LỰC VÀ VAI TRÒ ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) NCS.ThS. Bùi Võ Anh Hào Trường Đại học Kinh tế - Tài chính TP.HCM (UEF) Email: haobva@uef.edu.vn (Ngày nhận bài: 26/11/2015; Ngày duyệt đăng: 18/12/2015) TÓM TẮT Thời điểm Cộng đồng Kinh tế ASEAN (gọi tắt là AEC) chính thức đi vào hoạt động đã đến rất gần. Tham gia AEC sẽ mở ra rất nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt vị thế của Việt Nam trước vô vàn thách thức. Nhận diện được những cơ hội, thách thức đó mới là điều cốt lõi, nhưng quan trọng hơn nữa là phải tìm ra các biện pháp giúp đất nước tận dụng được những cơ hội, vượt qua những thách thức của vận hội này. Nâng cao năng lực đổi mới của quốc gia và của các doanh nghiệp chính là động lực giúp Việt Nam tham gia AEC thành công. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết này, tôi - tác giả bài viết tập trung luận bàn về các khái niệm đổi mới, năng lực đổi mới và vai trò của đổi mới; Đánh giá năng lực đổi mới của Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị giúp nâng cao năng lực đổi mới. Từ khóa: Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), đổi mới, năng lực đổi mới. ABSTRACT It is almost time for the ASEAN Economic Community (AEC) to officially coming into operation . Joining the AEC will open up many opportunities and at the same will allow Vietnam to face many challenge. Identifying opportunities and new challenges is essential but it is also important to find measures to help the country take advantage of opportunities and overcome challenges. Enhancing the ability for the nation and businesses to innovate is the driving force to help Vietnam join the AEC successfully. In the limited scope of this article,I the author of this article, focuses on discussing concepts of changes for good and recommendations to enhance innovation capacity. Keywords: ASEAN Economic Community (AEC), innovate , innovation capacity. GIỚI THIỆU nghiên cứu. Xung quanh khái niệm “Đổi Đúc kết từ quá trình nghiên cứu về kinh tế mới” (Innovation) tồn tại nhiều cách trình học hành vi, phân tích lợi thế cạnh tranh, bày, diễn giải khác nhau. Theo OECD phân tích hệ thống kinh tế quốc gia và chế độ (2005): “đổi mới là một quá trình giới thiệu xã hội... (Greenacre et al., 2012), lý thuyết ra thị trường những sản phẩm, những quy đổi mới (Innovation theory) được khởi xướng trình mới hoặc được cải thiện đáng kể, ngoài bởi Joseph Schumpeter (1911), đã không ra bao gồm cả sự phát triển đổi mới trong tổ ngừng phát triển trong suốt hơn một thế kỷ chức và các kỹ thuật Marketing” (Oslo qua, với nhiều tác giả, nhiều trường phái Manual, 2005, p.15). Theo dự án “Tăng Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 33 cường hệ thống thông tin Khoa học, Công Cùng với sự phát triển của Lý thuyết đổi nghệ và Đổi mới của các nước Bắc-Nam mới, khái niệm “Năng lực đổi mới” Mỹ”, đổi mới là một quy trình của những nỗ (Innovation capacity) cũng dần được hoàn lực để hình thành các mục tiêu tăng trưởng thiện. Theo trường phái “năng lực cốt lõi” kinh tế và duy trì cạnh tranh (Lugones, (Core competences), Gary Hamel và C.K 2012). Theo Fagerberg, đổi mới liên quan Prahalad (1994) cho rằng, năng lực đổi mới đến “sự kết hợp giữa kiến thức, năng lực, kỹ được thể hiện ở 3 khía cạnh: Giá trị mang lại năng và nguồn lực” (Fagerberg, 2003) trong cho khách hàng cuối cùng; Tương đối độc việc tìm kiếm lợi thế cạnh tranh thông qua đáo trong ý tưởng mà đối thủ cạnh tranh việc giảm chi phí sản xuất hoặc phát triển sản không dễ dàng nắm bắt được và khó có khả phẩm mới hoặc thay đổi những sản phẩm năng sao chép và tạo rào cản gia nhập ngành. hiện có… Nội hàm của Đổi mới cũng dần Còn theo trường phái “năng lực động” thay đổi. Theo hệ thống phân loại của (Dynamic capabilities), Teece and Pisano Schumpeter (1934, 1939), có 5 loại hình đổi (1994) định nghĩa: “năng lực đổi mới của mới: sản phẩm mới, phương pháp sản xuất một tổ chức là khả năng tích hợp, xây dựng mới, nguồn cung ứng mới, khai thác thị và định dạng lại những tiềm năng thuộc về trường mới hoặc cách thức mới để tổ chức nội lực và ngoại lực của doanh nghiệp để đáp kinh doanh. Theo Lugones (2012), đổi mới ứng với những thay đổi của môi trường kinh bao gồm: đổi mới sản phẩm (Product doanh”. Szeto (2000) định nghĩa năng lực đổi innovation), đổi mới quy trình (Process mới là sự cải tiến liên tục về khả năng innovation), đổi mới trong tổ chức (Capabilities) và nguồn lực (Resources) mà (Innovation in organisation) và đổi mới trong doanh nghiệp sở hữu để khám phá và khai thương mại (Innovation in thác nhiều cơ hội cho sự phát triển sản phẩm commercialisation). Còn theo OECD (2005), mới đáp ứng nhu cầu thị trường. Vượt ra có 4 loại đổi mới cần phân biệt: đổi mới sản ngoài phạm vi của một tổ chức, Kühne và phẩm (Product innovation), đổi mới quy trình các cộng sự (2013) định nghĩa năng lực đổi (Process innovation), đổi mới Marketing mới trong sự liên kết giữa các tác nhân của (Marketing innovation) và đổi mới tổ chức một chuỗi giá trị. Định nghĩa được phát biểu (Organisational innovation)… Dù trình bày như sau: “Trong phạm vi chuỗi, năng lực đổi theo cách nào chăng nữa, thì tất cả các tác mới bao gồm toàn bộ quá trình đổi mới xảy giả, các trường phái đều có cùng chung nhận ra trong và giữa các thành viên c ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Năng lực và vai trò đổi mới của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 32 NĂNG LỰC VÀ VAI TRÒ ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) NCS.ThS. Bùi Võ Anh Hào Trường Đại học Kinh tế - Tài chính TP.HCM (UEF) Email: haobva@uef.edu.vn (Ngày nhận bài: 26/11/2015; Ngày duyệt đăng: 18/12/2015) TÓM TẮT Thời điểm Cộng đồng Kinh tế ASEAN (gọi tắt là AEC) chính thức đi vào hoạt động đã đến rất gần. Tham gia AEC sẽ mở ra rất nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt vị thế của Việt Nam trước vô vàn thách thức. Nhận diện được những cơ hội, thách thức đó mới là điều cốt lõi, nhưng quan trọng hơn nữa là phải tìm ra các biện pháp giúp đất nước tận dụng được những cơ hội, vượt qua những thách thức của vận hội này. Nâng cao năng lực đổi mới của quốc gia và của các doanh nghiệp chính là động lực giúp Việt Nam tham gia AEC thành công. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết này, tôi - tác giả bài viết tập trung luận bàn về các khái niệm đổi mới, năng lực đổi mới và vai trò của đổi mới; Đánh giá năng lực đổi mới của Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị giúp nâng cao năng lực đổi mới. Từ khóa: Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), đổi mới, năng lực đổi mới. ABSTRACT It is almost time for the ASEAN Economic Community (AEC) to officially coming into operation . Joining the AEC will open up many opportunities and at the same will allow Vietnam to face many challenge. Identifying opportunities and new challenges is essential but it is also important to find measures to help the country take advantage of opportunities and overcome challenges. Enhancing the ability for the nation and businesses to innovate is the driving force to help Vietnam join the AEC successfully. In the limited scope of this article,I the author of this article, focuses on discussing concepts of changes for good and recommendations to enhance innovation capacity. Keywords: ASEAN Economic Community (AEC), innovate , innovation capacity. GIỚI THIỆU nghiên cứu. Xung quanh khái niệm “Đổi Đúc kết từ quá trình nghiên cứu về kinh tế mới” (Innovation) tồn tại nhiều cách trình học hành vi, phân tích lợi thế cạnh tranh, bày, diễn giải khác nhau. Theo OECD phân tích hệ thống kinh tế quốc gia và chế độ (2005): “đổi mới là một quá trình giới thiệu xã hội... (Greenacre et al., 2012), lý thuyết ra thị trường những sản phẩm, những quy đổi mới (Innovation theory) được khởi xướng trình mới hoặc được cải thiện đáng kể, ngoài bởi Joseph Schumpeter (1911), đã không ra bao gồm cả sự phát triển đổi mới trong tổ ngừng phát triển trong suốt hơn một thế kỷ chức và các kỹ thuật Marketing” (Oslo qua, với nhiều tác giả, nhiều trường phái Manual, 2005, p.15). Theo dự án “Tăng Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 33 cường hệ thống thông tin Khoa học, Công Cùng với sự phát triển của Lý thuyết đổi nghệ và Đổi mới của các nước Bắc-Nam mới, khái niệm “Năng lực đổi mới” Mỹ”, đổi mới là một quy trình của những nỗ (Innovation capacity) cũng dần được hoàn lực để hình thành các mục tiêu tăng trưởng thiện. Theo trường phái “năng lực cốt lõi” kinh tế và duy trì cạnh tranh (Lugones, (Core competences), Gary Hamel và C.K 2012). Theo Fagerberg, đổi mới liên quan Prahalad (1994) cho rằng, năng lực đổi mới đến “sự kết hợp giữa kiến thức, năng lực, kỹ được thể hiện ở 3 khía cạnh: Giá trị mang lại năng và nguồn lực” (Fagerberg, 2003) trong cho khách hàng cuối cùng; Tương đối độc việc tìm kiếm lợi thế cạnh tranh thông qua đáo trong ý tưởng mà đối thủ cạnh tranh việc giảm chi phí sản xuất hoặc phát triển sản không dễ dàng nắm bắt được và khó có khả phẩm mới hoặc thay đổi những sản phẩm năng sao chép và tạo rào cản gia nhập ngành. hiện có… Nội hàm của Đổi mới cũng dần Còn theo trường phái “năng lực động” thay đổi. Theo hệ thống phân loại của (Dynamic capabilities), Teece and Pisano Schumpeter (1934, 1939), có 5 loại hình đổi (1994) định nghĩa: “năng lực đổi mới của mới: sản phẩm mới, phương pháp sản xuất một tổ chức là khả năng tích hợp, xây dựng mới, nguồn cung ứng mới, khai thác thị và định dạng lại những tiềm năng thuộc về trường mới hoặc cách thức mới để tổ chức nội lực và ngoại lực của doanh nghiệp để đáp kinh doanh. Theo Lugones (2012), đổi mới ứng với những thay đổi của môi trường kinh bao gồm: đổi mới sản phẩm (Product doanh”. Szeto (2000) định nghĩa năng lực đổi innovation), đổi mới quy trình (Process mới là sự cải tiến liên tục về khả năng innovation), đổi mới trong tổ chức (Capabilities) và nguồn lực (Resources) mà (Innovation in organisation) và đổi mới trong doanh nghiệp sở hữu để khám phá và khai thương mại (Innovation in thác nhiều cơ hội cho sự phát triển sản phẩm commercialisation). Còn theo OECD (2005), mới đáp ứng nhu cầu thị trường. Vượt ra có 4 loại đổi mới cần phân biệt: đổi mới sản ngoài phạm vi của một tổ chức, Kühne và phẩm (Product innovation), đổi mới quy trình các cộng sự (2013) định nghĩa năng lực đổi (Process innovation), đổi mới Marketing mới trong sự liên kết giữa các tác nhân của (Marketing innovation) và đổi mới tổ chức một chuỗi giá trị. Định nghĩa được phát biểu (Organisational innovation)… Dù trình bày như sau: “Trong phạm vi chuỗi, năng lực đổi theo cách nào chăng nữa, thì tất cả các tác mới bao gồm toàn bộ quá trình đổi mới xảy giả, các trường phái đều có cùng chung nhận ra trong và giữa các thành viên c ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Cộng đồng Kinh tế ASEAN Kinh tế học hành vi Chỉ số chất lượng nguồn nhân lực Quản lý vốn đầu tư Quản trị đổi mớiGợi ý tài liệu liên quan:
-
11 trang 115 0 0
-
6 trang 82 0 0
-
26 trang 79 0 0
-
8 trang 51 0 0
-
9 trang 48 0 0
-
3 trang 42 0 0
-
Cơ hội cho phát triển thương mại điện tử Việt Nam khi tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN
8 trang 41 0 0 -
Sự hình thành kinh tế học hành vi: Phần 2
307 trang 37 0 0 -
10 trang 33 0 0
-
3 trang 32 0 0
-
Nhân lực du lịch Việt Nam – cơ hội và thách thức trong cộng đồng ASEAN 2015
6 trang 31 0 0 -
Sự hình thành kinh tế học hành vi: Phần 1
216 trang 30 0 0 -
5 trang 29 0 0
-
Mười nguyên tắc Đổi mới bền vững
4 trang 28 0 0 -
Cơ hội, thách thức đối với ngành Dệt – may khi Việt Nam gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN
7 trang 28 0 0 -
Ngành bảo hiểm Việt Nam trước thềm hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN
12 trang 27 0 0 -
Bài giảng Kinh tế vi mô 2: Bài 2 - Lý thuyết người tiêu dùng
35 trang 27 0 0 -
98 trang 24 0 0
-
Bài giảng tài chính doanh nghiệp - Chương 6
45 trang 23 0 0 -
174 trang 23 0 0