Nghiên cứu khả năng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế mới về công cụ tài chính (IFRS 9) trong kế toán dự phòng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 554.65 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Các nghiên cứu trước cho thấy IFRS 9 mang lại hiệu quả lớn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng như ghi nhận tổn thất rủi ro tín dụng sớm hơn với mức ghi nhận dự phòng rủi ro tín dụng cao hơn; ước tính tổn thất tín dụng kịp thời và đầy đủ, ổn định tính chu kỳ, tăng tính nhất quán, minh bạch của chất lượng thông tin tài chính,…
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khả năng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế mới về công cụ tài chính (IFRS 9) trong kế toán dự phòng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ MỚI VỀ CÔNG CỤ TÀI CHÍNH (IFRS 9) TRONG KẾ TOÁN DỰ PHÒNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Đào Nam Giang1, Trần Nhật Tân2 1 Khoa Kế toán kiểm toán - Học viện Ngân hàng, 2Ngân hàng Agribank Hà Nam TÓM TẮT Các nghiên cứu trước cho thấy IFRS 9 mang lại hiệu quả lớn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng như ghi nhận tổn thất rủi ro tín dụng sớm hơn với mức ghi nhận dự phòng rủi ro tín dụng cao hơn; ước tính tổn thất tín dụng kịp thời và đầy đủ, ổn định tính chu kỳ, tăng tính nhất quán, minh bạch của chất lượng thông tin tài chính,…Bên cạnh đó một loạt các khăn khi các quốc gia áp dụng IFRS 9 về kế toán giảm giá trị các khoản cho vay và phải thu có thể kể đến như tăng áp lực về khoản DPRRTD, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của NHTM và lợi ích của các cổ đông hay chi phí để vận hành mô hình ECL của IFRS 9 cao hơn do cần đầu tư vào phát triển chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và quá trình thu thập dữ liệu,…Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trên được đưa ra dựa trên các nghiên cứu, khảo sát của các tác giả tại nhiều quốc gia đã triển khai áp dụng IFRS 9, phần lớn là các nước phát triển với điều kiện kinh tế khác biệt lớn so với Việt Nam. Nghiên cứu này kế thừa các nghiên cứu trước, sử dụng phương pháp điều tra qua bảng hỏi để xác nhận lại khả năng, khó khăn và thuận lợi trong việc áp dụng mô hình lỗ dự kiến của IFRS9 trong điều kiện của các NHTM Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu chính có thể thấy là phần lớn các chủ thể tham gia khảo sát cho rằng mặc dù các NHTM Việt Nam đã tuân thủ các quy định trong của NHNN nhưng vẫn tồn tại hiện tượng giấu lỗ qua dự phòng; do đó việc áp dụng IFRS 9 là cần thiết nhưng không nên áp dụng trực tiếp chuẩn mực này mà cần có sự điều chỉnh cho phù hợp. Những khó khăn chính khi áp dụng IFRS là sự lo ngại số liệu nợ xấu tăng cao khi áp dụng IFRS 9 sẽ gây hiệu ứng xấu lan truyền trong nền kinh tế; chi phí xây dựng chuẩn mực mới theo IFRS 9 cao, thông tin thị trường thiếu minh bạch, hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ chưa hoàn thiện, rào cản về ngôn ngữ. Yếu tố con người và công nghệ không phải là những nhân tốt gây trở ngại lớn. Từ khóa: dự phòng rủi ro tín dụng (loan loss provision); IFRS9; mô hình lỗ dự kiến (expected loss model); ngân hàng thương mại (commercial banks). 1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 1.1. Mô hình “Lỗ dự kiến -expected loss” trong xác định dự phòng rủi ro tín dung theo IFRS 9 và tác động của việc áp dụng tại các NHTM Trước 2018, IAS 39 – Công cụ tài chính đo lường và ghi nhận (IAS39) áp dụng mô hình tổn thất tín dụng phát sinh trong xác định và ghi nhận giảm giá trị của khoản cho vay và phải thu. Theo đó, các khoản cho vay và phải thu được đánh giá bị suy giảm và tổn thất suy giảm được ghi nhận chỉ khi tại thời điểm lập bảng cân đối kế toán có bằng chứng khách quan về việc suy giảm giá trị do một hoặc nhiều sự kiện xảy ra sau khi ghi nhận lần đầu(ví dụ: người vay khó khăn về tài chính, giảm giá trị tài sản thế chấp, rủi ro phá sản). Mô hình này của IAS 39 bị chỉ trích là ghi nhận các khoản tổn thất tín dụng không kịp thời ((IASB, 2014),(Sultanoğlu, 2018)), làm tăng tác động của chu kỳ kinh tế đên các NHTM hoặc cả hai ((Novotny-Farkas, 2015); (Laeven & Majnoni, 2003) (Beatty & Liao, 2011; Bushman & Williams, 2012; Cohen & Edwards, 2017). Theo tổng kết của IASB, trong cuộc khủng hoảng tài chính, việc chậm trễ ghi nhận tổn thất tín dụng đối với các khoản vay (và các công cụ tài chính khác) được xác định là một điểm yếu trong các chuẩn mực kế toán hiện hành. Tại cuộc họp tháng 4/2009, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, IASB đã cam kết xem xét lại toàn diện 64 Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 các quy đinh hiện hành của IAS 39. Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến tháng 7/2014, IASB ban hành bản chính thức cuối cùng của IFRS 9 – Công cụ tài chính (IFRS9) để thay thế cho IAS 39 và toàn bộ các phiên bản trước đó của IFRS 9. IFRS 9 đưa ra những quy định về việc ghi nhận, đo lường các công cụ tài chính, đánh giá giảm giá trị và kế toán dự phòng. IFRS 9 được phép áp dụng sớm song song cùng IAS 39, chính thức có hiệu lực từ hoặc sau ngày 1/1/2018. IFRS 9 đưa ra mô hình mới – mô hình tổn thất tín dụng dự kiến (ECL – Expected Credit Loss Model) thay thế cho mô hình tổn thất phát sinh (Incurred Loss Model) của IAS 39. Mô hình này được áp dụng cho các TSTC đo lường theo giá trị phân bổ; TSTC bắt buộc đo lường theo giá trị hợp lý thông qua Thu nhập toàn diện khác; các cam kết cho vay khi có nghĩa vụ hiện tại là các gia hạn tín dụng (trừ trường hợp các khoản vay này được đo lường theo giá trị hợp lý thông quan lãi.lỗ) “Tổn thất tín dụng dự kiến” - phản ánh mô hình chung về sự suy giảm hay sự cải thiện chất lượng tín dụng của các công cụ tài chính. Giá trị được tính toán bởi ECLs được ghi nhận như một khoản dự phòng tổn thất hay dự phòng phải trả phụ thuộc vào mức độ suy giảm tín dụng của công cụ tài chính kể từ lần ghi nhận đầu tiên. Khoản tổn thất tín dụng dự kiến được xác định bởi một trong 3 phương pháp: phương pháp chung, phương pháp đơn giản và phương pháp điều chỉnh rủi ro tín dụng. Bảng 1. Các phương pháp xác định khoản tổn thất tín dụng dự kiến theo IFRS 9 ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khả năng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế mới về công cụ tài chính (IFRS 9) trong kế toán dự phòng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ MỚI VỀ CÔNG CỤ TÀI CHÍNH (IFRS 9) TRONG KẾ TOÁN DỰ PHÒNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Đào Nam Giang1, Trần Nhật Tân2 1 Khoa Kế toán kiểm toán - Học viện Ngân hàng, 2Ngân hàng Agribank Hà Nam TÓM TẮT Các nghiên cứu trước cho thấy IFRS 9 mang lại hiệu quả lớn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng như ghi nhận tổn thất rủi ro tín dụng sớm hơn với mức ghi nhận dự phòng rủi ro tín dụng cao hơn; ước tính tổn thất tín dụng kịp thời và đầy đủ, ổn định tính chu kỳ, tăng tính nhất quán, minh bạch của chất lượng thông tin tài chính,…Bên cạnh đó một loạt các khăn khi các quốc gia áp dụng IFRS 9 về kế toán giảm giá trị các khoản cho vay và phải thu có thể kể đến như tăng áp lực về khoản DPRRTD, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của NHTM và lợi ích của các cổ đông hay chi phí để vận hành mô hình ECL của IFRS 9 cao hơn do cần đầu tư vào phát triển chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và quá trình thu thập dữ liệu,…Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trên được đưa ra dựa trên các nghiên cứu, khảo sát của các tác giả tại nhiều quốc gia đã triển khai áp dụng IFRS 9, phần lớn là các nước phát triển với điều kiện kinh tế khác biệt lớn so với Việt Nam. Nghiên cứu này kế thừa các nghiên cứu trước, sử dụng phương pháp điều tra qua bảng hỏi để xác nhận lại khả năng, khó khăn và thuận lợi trong việc áp dụng mô hình lỗ dự kiến của IFRS9 trong điều kiện của các NHTM Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu chính có thể thấy là phần lớn các chủ thể tham gia khảo sát cho rằng mặc dù các NHTM Việt Nam đã tuân thủ các quy định trong của NHNN nhưng vẫn tồn tại hiện tượng giấu lỗ qua dự phòng; do đó việc áp dụng IFRS 9 là cần thiết nhưng không nên áp dụng trực tiếp chuẩn mực này mà cần có sự điều chỉnh cho phù hợp. Những khó khăn chính khi áp dụng IFRS là sự lo ngại số liệu nợ xấu tăng cao khi áp dụng IFRS 9 sẽ gây hiệu ứng xấu lan truyền trong nền kinh tế; chi phí xây dựng chuẩn mực mới theo IFRS 9 cao, thông tin thị trường thiếu minh bạch, hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ chưa hoàn thiện, rào cản về ngôn ngữ. Yếu tố con người và công nghệ không phải là những nhân tốt gây trở ngại lớn. Từ khóa: dự phòng rủi ro tín dụng (loan loss provision); IFRS9; mô hình lỗ dự kiến (expected loss model); ngân hàng thương mại (commercial banks). 1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 1.1. Mô hình “Lỗ dự kiến -expected loss” trong xác định dự phòng rủi ro tín dung theo IFRS 9 và tác động của việc áp dụng tại các NHTM Trước 2018, IAS 39 – Công cụ tài chính đo lường và ghi nhận (IAS39) áp dụng mô hình tổn thất tín dụng phát sinh trong xác định và ghi nhận giảm giá trị của khoản cho vay và phải thu. Theo đó, các khoản cho vay và phải thu được đánh giá bị suy giảm và tổn thất suy giảm được ghi nhận chỉ khi tại thời điểm lập bảng cân đối kế toán có bằng chứng khách quan về việc suy giảm giá trị do một hoặc nhiều sự kiện xảy ra sau khi ghi nhận lần đầu(ví dụ: người vay khó khăn về tài chính, giảm giá trị tài sản thế chấp, rủi ro phá sản). Mô hình này của IAS 39 bị chỉ trích là ghi nhận các khoản tổn thất tín dụng không kịp thời ((IASB, 2014),(Sultanoğlu, 2018)), làm tăng tác động của chu kỳ kinh tế đên các NHTM hoặc cả hai ((Novotny-Farkas, 2015); (Laeven & Majnoni, 2003) (Beatty & Liao, 2011; Bushman & Williams, 2012; Cohen & Edwards, 2017). Theo tổng kết của IASB, trong cuộc khủng hoảng tài chính, việc chậm trễ ghi nhận tổn thất tín dụng đối với các khoản vay (và các công cụ tài chính khác) được xác định là một điểm yếu trong các chuẩn mực kế toán hiện hành. Tại cuộc họp tháng 4/2009, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, IASB đã cam kết xem xét lại toàn diện 64 Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 các quy đinh hiện hành của IAS 39. Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến tháng 7/2014, IASB ban hành bản chính thức cuối cùng của IFRS 9 – Công cụ tài chính (IFRS9) để thay thế cho IAS 39 và toàn bộ các phiên bản trước đó của IFRS 9. IFRS 9 đưa ra những quy định về việc ghi nhận, đo lường các công cụ tài chính, đánh giá giảm giá trị và kế toán dự phòng. IFRS 9 được phép áp dụng sớm song song cùng IAS 39, chính thức có hiệu lực từ hoặc sau ngày 1/1/2018. IFRS 9 đưa ra mô hình mới – mô hình tổn thất tín dụng dự kiến (ECL – Expected Credit Loss Model) thay thế cho mô hình tổn thất phát sinh (Incurred Loss Model) của IAS 39. Mô hình này được áp dụng cho các TSTC đo lường theo giá trị phân bổ; TSTC bắt buộc đo lường theo giá trị hợp lý thông qua Thu nhập toàn diện khác; các cam kết cho vay khi có nghĩa vụ hiện tại là các gia hạn tín dụng (trừ trường hợp các khoản vay này được đo lường theo giá trị hợp lý thông quan lãi.lỗ) “Tổn thất tín dụng dự kiến” - phản ánh mô hình chung về sự suy giảm hay sự cải thiện chất lượng tín dụng của các công cụ tài chính. Giá trị được tính toán bởi ECLs được ghi nhận như một khoản dự phòng tổn thất hay dự phòng phải trả phụ thuộc vào mức độ suy giảm tín dụng của công cụ tài chính kể từ lần ghi nhận đầu tiên. Khoản tổn thất tín dụng dự kiến được xác định bởi một trong 3 phương pháp: phương pháp chung, phương pháp đơn giản và phương pháp điều chỉnh rủi ro tín dụng. Bảng 1. Các phương pháp xác định khoản tổn thất tín dụng dự kiến theo IFRS 9 ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Dự phòng rủi ro tín dụng Mô hình lỗ dự kiến Ngân hàng thương mại Mô hình tổn thất tín dụng dự kiến Chuẩn mực kế toán quốc tếGợi ý tài liệu liên quan:
-
7 trang 241 3 0
-
19 trang 184 0 0
-
Các yếu tố tác động đến hành vi sử dụng Mobile banking: Một nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
20 trang 177 0 0 -
Bài giảng học Lý thuyết tài chính- tiền tệ
54 trang 174 0 0 -
Hoàn thiện pháp luật về ngân hàng thương mại ở Việt Nam: Phần 1
190 trang 172 0 0 -
Các bước cơ bản trình bày báo cáo tài chính hợp nhất theo chuẩn mực kế toán quốc tế
6 trang 171 0 0 -
Giáo trình: Mô phỏng sàn giao dịch chứng khoán: Phần 1 - ĐH Kỹ thuật Công nghệ
28 trang 158 0 0 -
Bài giảng Lý thuyết tiền tệ: Bài 4 - Các ngân hàng trung gian
20 trang 151 0 0 -
Xu hướng chuyển đổi báo cáo tài chính Việt Nam theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
5 trang 137 0 0 -
CÁC QUY TẮC VÀ THỰC HÀNH THỐNG NHẤT VỀ TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
29 trang 135 0 0