Danh mục

Nghiên cứu khả năng quang hợp và mức độ chín tập trung của bảy giống đậu xanh

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 588.52 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các chỉ tiêu về khả năng quang hợp như: chỉ số diện tích lá (LAI), hiệu suất quang hợp thuần (NAR), năng suất hạt, và các chỉ tiêu sinh trưởng như: Thời gian ra hoa, chín quả, thời gian sinh trưởng, số lượng hoa, quả mỗi đợt được so sánh đánh giá giữa 7 giống đậu xanh để xác định giống có khả năng quang hợp tốt, năng suất cao và chín tập trung.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khả năng quang hợp và mức độ chín tập trung của bảy giống đậu xanh JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1059.2015-00019 Natural Sci. 2015, Vol. 60, No. 4, pp. 132-137 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG QUANG HỢP VÀ MỨC ĐỘ CHÍN TẬP TRUNG CỦA BẢY GIỐNG ĐẬU XANH Điêu Thị Mai Hoa và Trần Thị Thanh Huyền Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt: Các chỉ tiêu về khả năng quang hợp như: chỉ số diện tích lá (LAI), hiệu suất quang hợp thuần (NAR), năng suất hạt, và các chỉ tiêu sinh trưởng như: thời gian ra hoa, chín quả, thời gian sinh trưởng, số lượng hoa, quả mỗi đợt được so sánh đánh giá giữa 7 giống đậu xanh để xác định giống có khả năng quang hợp tốt, năng suất cao và chín tập trung. Những giống chín tập trung là những giống có thời gian ra hoa, chín quả ngắn, quả chín chủ yếu vào 2 đợt. Trong nghiên cứu này, những giống chín tập trung, năng suất cao là ĐX12, ĐX18, ĐX208. Giống có LAI và NAR cao là ĐX18. Từ khóa: Quang hợp, đậu xanh, LAI, NAR. 1. Mở đầu Đậu xanh là cây thực phẩm ngắn ngày, có giá trị dinh dưỡng, giá trị kinh tế cao chỉ sau cây đậu tương. Đậu xanh có hàm lượng protein đạt tới 24% (Trần Đình Long và Lê Khả Tường, 1998) [1] và là protein chất lượng cao. Bên cạnh giá trị dinh dưỡng, đậu xanh còn mang nét đặc trưng rất độc đáo trong đời sống người Việt, đó là văn hóa ẩm thực với bánh chưng xanh trong ngày Tết cổ truyền, bánh đậu xanh Hải Dương nổi tiếng, các loại chè, cháo… chế biến từ đậu xanh đến món “giá đỗ” trong bữa ăn thường nhật. Trong khi nhu cầu về đậu tương, đậu xanh nhập khẩu rất lớn, tiêu tốn hàng trăm triệu đô la mỗi năm thì việc mở rộng diện tích trồng đậu nói chung và cây đậu xanh nói riêng có ý nghĩa kinh tế rất quan trọng. Quang hợp là hoạt động sinh lí quan trọng nhất ở thực vật, quyết định tới khoảng 95% năng suất sinh học. Các quá trình sinh lí khác trong cây có mối quan hệ chặt chẽ với quang hợp, thúc đẩy, hỗ trợ hoạt động đồng hóa. Nghiên cứu của Islam và Razzaque (2010) [2] đã chỉ ra mối tương quan thuận giữa các giống đậu xanh năng suất hạt cao với cường độ quang hợp của cây, mặc dù không phải luôn có tương quan chặt chẽ nhưng khả năng quang hợp cao sẽ tạo tiềm năng lớn hơn cho sự hình thành năng suất kinh tế. Bên cạnh đó, một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc mở rộng diện tích trồng đậu xanh so với đậu tương hay lạc là do cây đậu xanh có đặc điểm chín không tập trung, thời gian chín kéo dài gây khó khăn trong thu hoạch vì phải thu hái nhiều lần tốn công lao động. Thông thường mỗi vụ đậu xanh cần tới 4 - 5 lần thu hái thậm chí nhiều hơn. Những quả chín không kịp thu có thể bị tách vỏ, phát tán hạt, rụng quả hoặc bị chuột phá hoại. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đề cập đến hai vấn đề quan trọng nêu trên, đây là những tiêu chí quan trọng góp phần chọn giống có thời gian chín ngắn, chín tập trung, năng suất cao. Ngày nhận bài: 2/3/2015. Ngày nhận đăng: 17/5/2015. Tác giả liên lạc: Trần Thị Thanh Huyền, địa chỉ e-mail: tranthanhhuyen@hnue.edu.vn 132 Nghiên cứu khả năng quang hợp và mức độ chín tập trung của bảy giống đậu xanh 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên bảy dòng/giống đậu xanh, gọi chung là các giống đậu xanh; trong đó: ĐXVN5, ĐXVN6, ĐX18 là 3 dòng triển vọng của Viện nghiên cứu ngô; Các giống ĐX12, ĐX208, Tằm Thanh Hóa và ĐXVN99-3 do Trung tâm nghiên cứu và phát triển đậu đỗ - viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam cung cấp. * Phương pháp bố trí thí nghiệm: Chia lô đất thí nghiệm thành các luống cách nhau 40cm, mỗi luống gồm 7 ô, mỗi ô có diện tích 2m2. Mỗi giống thí nghiệm gieo vào một ô, nhắc lại 3 lần, các ô thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn toàn. Đậu xanh được trồng theo hàng, khoảng cách giữa các hàng 30cm, cây cách cây khoảng 10cm. Chế độ chăm sóc theo quy trình hướng dẫn của Phạm Văn Thiều (2009) [3]. Thời gian trồng đậu xanh là vụ hè thu năm 2013, tại Vườn thực nghiệm sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. * Các chỉ tiêu nghiên cứu Chỉ số diện tích lá (m2 lá/m2 đất): Xác định diện tích lá theo phương pháp tỉ lệ khối lượng các mảnh giấy hình lá với mảnh giấy 1 dm2, không nhổ cây. Mỗi ô thí nghiệm thu mẫu và tính tổng số diện tích lá của tất cả các cây có trong 0,5 m2 đất [4]. Hiệu suất quang hợp thuần: Mỗi đợt thu 5 cây, đào đất để lấy được cả rễ, ngâm và xả nước để loại bỏ hết đất bám vào rễ, xác định hiệu suất quang hợp thuần theo mô tả của Nguyễn Văn Mã [4]. Năng suất hạt: cân khối lượng hạt/cây. Xác định chỉ tiêu thời gian ra hoa, chín quả, sinh trưởng: Đánh dấu 30 cây đậu xanh theo kiểu ngẫu nhiên, tuần tự trong ô thí nghiệm hình chữ nhật (10 cây trong 1 ô), theo dõi các chỉ tiêu sau: Thời gian ra tới ra hoa: số ngày từ khi gieo hạt đến khi cây bắt đầu ra hoa. Thời gian tới chín quả: số ngày từ khi gieo hạt đến khi 100% quả chín. Thời gian sinh trưởng: tính từ khi gieo hạt đến khi thu hoạch hết. Số lượng hoa, quả mỗi đợt: đếm trực tiếp trên những cây đã đánh dấu. 2.2. Kết quả và thảo luận 2.2.1. Khả năng quang hợp của các giống đậu xanh * Chỉ số diện tích lá Chỉ số diện tích lá (LAI - Leaf Area Index), phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của giống, kĩ thuật thâm canh, phân bón… chỉ số này phản ánh tiềm năng quang hợp của cây. Kết quả theo dõi chỉ số diện tích lá của các giống đậu xanh ở các thời kì khác nhau được thể hiện trong Bảng 1. Bảng 1 cho thấy, LAI của các giống đậu xanh đều tăng qua các thời kì sinh trưởng, Khi cây ra hoa đợt 2, LAI đạt cao nhất, biến động trong khoảng 0,956 – 1,567. Từ thời kì cây con (3 – 4 lá) đến ra hoa đợt 1, do số lượng lá tăng lên, các lá tăng diện tích nên LAI tăng mạnh, đạt 0,767 – 1,120; trong ...

Tài liệu được xem nhiều: