Nghiên cứu xã hội học và dân số Việt Nam (Tập 2): Phần 2
Số trang: 189
Loại file: pdf
Dung lượng: 33.95 MB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nối tiếp phần 1, phần 2 tài liệu Nghiên cứu xã hội học và dân số Việt Nam (Tập 2) trình bày nội dung về nghiên cứu về di cư. Hy vọng rằng tài liệu này sẽ trở thành một tài liệu bổ ích cho các học viên cao học xã hội học và các bạn đọc quan tâm đến chủ đề nghiên cứu dân số ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu xã hội học và dân số Việt Nam (Tập 2): Phần 2 PHẦN IV NGHIÊN CỨU VỂ DI c ư 251 DI C ư VÀ PHÁT TRIỂN TRONG B ố i CẢNH ĐỔI MỚI KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA ĐẤT NƯỚC(i) ĐẶNG NGUYÊN ANH Theo luận điểm kinh điển, dân số tại các quốc gia đang phát triển ít có sự di động do quá trình di cư chỉ diễn ra mạnh mẽ trên nền tảng của một xã hội công nghiệp hiện đại (Zelinski, 1971). Tuy nhiên khi các scí liệu và phương pháp nghiên cứu di cư trở nên phong phú hơn, người ta đã thấy rằng di chuyển dân sô diễn ra rộng khắp ngay ở các quốc gia đang bước vào thời kỳ phát triển ban đầu. Ngay từ những thập kỷ trưốc, quá trình di cư ở châu Á đã diễn ra mạnh mẽ dưới nhiều hình thức, với sự tham gia của nhiêu tầng lớp xã hội và dân cư khác nhau. Là một phương thức năng động kết nối nông thôn vói thành thị, giữa các vùng lãnh thổ trong một nước cũng như giữa các quôc gia, di cư đã trở nên một cấu thành quan trọng góp phần vào tiến trình phát triển ở nhiều quổc gia. Trong khi nghiên cứu di cư ở châu Á đã đạt đến đỉnh cao với những xuất bản phẩm hết sức phong phú thì những kết quả thu được về di cư ở Việt Nam còn ít về sô lượng và nghèo nàn về chất lượng. Đặc biệt, nguyên nhân và bản chất của vấn để di cư chưa được đặt ra xem xét một cách nghiêm túc trong công tác hoạch định kê hoạch và chính sách kinh tế-xã hội. Di cư vẫn bị xem như một vân đề bức xúc cần giải quyết, một cái giá phải trả cho sự phát triển chứ không phải là một yếu tố tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội trong thời kỳ phát triển mói của đất nước. 253 Nếu so sánh Việt Nam với các quốc gia châu Á trên lĩnh vực di cư, có thể nhận thấy nhiều điểm khác biệt cũng như tương đồng. Quá trình di cư ở Việt Nam có những nét đặc thù, chủ yếu do sự tác động liên tục của chiến tranh và vai trò chủ đạo của Nhà nước đối với công tác di dân, nhưng đồng thòi Việt Nam cũng tìm thấy sự tương đồng với các quốc gia trong khu vực về hình thái, nguyên nhân và bản chất của di cư trong tiến trình hiện đại hóa đất nước. Với đặc trưng đó, phần đầu của bài viết này tìm hiểu kinh nghiệm di cư mà các quốc gia ở châu Á đã trải qua những năm trước đầy. 1. Kinh nghiệm của các quốc gia châu Á Có thể nói, tăng trưởng đô thị và di chuyển dần số ở châu Á diễn ra trong bốì cảnh hiện đại hóa và chịu sự chi phối mạnh mẽ của chính sách nhà nước. Trước những đòi hỏi bức xúc trong nhu cầu tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội, các quốc gia châu Á đã có những biện pháp gián tiếp hoặc trực tiếp phân bô, điều chỉnh lại quy mô và cơ cấu dân cư. Mặc dù nhiều nước đã tiến hành những biện pháp hạn chế di cư ra thành phô nhằm ổn định sự phát triển, mức độ can thiệp mạnh nhẹ lại tùy theo từng quốc gia. Trong khi Trung Quốc từ mấy chục năm qua đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm kiểm soát chặt chẽ lượng nhập cư vào thành phố, Inđônêxia đã sử dụng các biện pháp ôn hòa hơn dựa trên phương thức thuyết phục và vận động thay vì sự cấm đoán. Mặc dù Thái Lan trong những năm gần đây đã áp dụng các biện pháp nhằm giảm bớt lưu lượng nhập cư vào Băng Cốc, nhưng Chính phủ Thái chứa bao giờ dùng những biện pháp hạn chế sự đi lại làm ăn của cư dân từ nơi khác đến thủ đô nước này. Những mất cân đốỉ giữa các vùng lãnh thổ và sự ưu đãi đầu tư đối với khu vực đô thị và hoạt động kinh tế dịch vụ ở 254 Thái Lan tiếp tục thu h ú t người lao động từ nông thôn ra thành phô làm ăn sinh sống. Chính phủ Philíppin rất quan tâm đến vấn đề bùng nổ dân số ồ các thành phố lớn, nhất là thủ đô Manila. Tuy nhiên, chiến lược tập trung đầu tư vào các trung tâm đô thị của Philíppin đã dẫn đến sự ra đi ồ ạt của dân số nông thôn. Mặc dù chính phủ đã có quan tâm đến việc phát triển vùng kinh tê và xây dựng các trục công nghiệp mới nằm ngoài thủ đô Manila nhằm giảm bớt sức ép nhập cư vào thành phố, các biện pháp này không giúp thay đổi được tình thế, thậm chí còn làm gia tăng những dòng nhập cư lốn hơn từ nông thôn ra thành thị. Điều này là kết qủa của sự hội nhập giữa các vùng kem phát triển với những trục công nghiệp đô thị mối nói trên ở Philíppin. Trên bình diện chính sách, có thế nói rằng những biện pháp nhằm kiểm soát di cư được áp dụng áp dụng rộng rãi ở nhiều quốic gia chứ không chỉ đơn thuần ở châu Á, bao gồm cả các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây (Oberai, 1988). Tại các quốc gia này trước thời mở cửa, việc nhập cư vào thành phô thường bị hạn chê tối đa thông qua hệ thống đăng ký nhân khẩu trong khi nhà nước lại khuyến khích sự chuyển cư từ thành phố vê nông thôn. Bên cạnh đó, các quốc gia nói trên còn tiến hành tái phân chia và phân loại thành thị nhằm ổn định cơ cấu phát triển theo kế hoạch. Những biện pháp qụản lý di cư nói trên nhằm khống chế sự tập trung dân cư tại thành phố, bởi các nhà quản.lý e ngại rằng sự phình ra của các thành phô lớn sẽ kéo theo những bất ổn định xã hội và mất cân đối trong kê hoạch. Cũng vì lý do đó mà ở các quốc gia này, chương trình tái định cư và di dân đến các vùng đất mới đã nhận được sự hỗ trợ và đầu tư mạnh mẽ của Nhà nưốc. 255 ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu xã hội học và dân số Việt Nam (Tập 2): Phần 2 PHẦN IV NGHIÊN CỨU VỂ DI c ư 251 DI C ư VÀ PHÁT TRIỂN TRONG B ố i CẢNH ĐỔI MỚI KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA ĐẤT NƯỚC(i) ĐẶNG NGUYÊN ANH Theo luận điểm kinh điển, dân số tại các quốc gia đang phát triển ít có sự di động do quá trình di cư chỉ diễn ra mạnh mẽ trên nền tảng của một xã hội công nghiệp hiện đại (Zelinski, 1971). Tuy nhiên khi các scí liệu và phương pháp nghiên cứu di cư trở nên phong phú hơn, người ta đã thấy rằng di chuyển dân sô diễn ra rộng khắp ngay ở các quốc gia đang bước vào thời kỳ phát triển ban đầu. Ngay từ những thập kỷ trưốc, quá trình di cư ở châu Á đã diễn ra mạnh mẽ dưới nhiều hình thức, với sự tham gia của nhiêu tầng lớp xã hội và dân cư khác nhau. Là một phương thức năng động kết nối nông thôn vói thành thị, giữa các vùng lãnh thổ trong một nước cũng như giữa các quôc gia, di cư đã trở nên một cấu thành quan trọng góp phần vào tiến trình phát triển ở nhiều quổc gia. Trong khi nghiên cứu di cư ở châu Á đã đạt đến đỉnh cao với những xuất bản phẩm hết sức phong phú thì những kết quả thu được về di cư ở Việt Nam còn ít về sô lượng và nghèo nàn về chất lượng. Đặc biệt, nguyên nhân và bản chất của vấn để di cư chưa được đặt ra xem xét một cách nghiêm túc trong công tác hoạch định kê hoạch và chính sách kinh tế-xã hội. Di cư vẫn bị xem như một vân đề bức xúc cần giải quyết, một cái giá phải trả cho sự phát triển chứ không phải là một yếu tố tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội trong thời kỳ phát triển mói của đất nước. 253 Nếu so sánh Việt Nam với các quốc gia châu Á trên lĩnh vực di cư, có thể nhận thấy nhiều điểm khác biệt cũng như tương đồng. Quá trình di cư ở Việt Nam có những nét đặc thù, chủ yếu do sự tác động liên tục của chiến tranh và vai trò chủ đạo của Nhà nước đối với công tác di dân, nhưng đồng thòi Việt Nam cũng tìm thấy sự tương đồng với các quốc gia trong khu vực về hình thái, nguyên nhân và bản chất của di cư trong tiến trình hiện đại hóa đất nước. Với đặc trưng đó, phần đầu của bài viết này tìm hiểu kinh nghiệm di cư mà các quốc gia ở châu Á đã trải qua những năm trước đầy. 1. Kinh nghiệm của các quốc gia châu Á Có thể nói, tăng trưởng đô thị và di chuyển dần số ở châu Á diễn ra trong bốì cảnh hiện đại hóa và chịu sự chi phối mạnh mẽ của chính sách nhà nước. Trước những đòi hỏi bức xúc trong nhu cầu tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội, các quốc gia châu Á đã có những biện pháp gián tiếp hoặc trực tiếp phân bô, điều chỉnh lại quy mô và cơ cấu dân cư. Mặc dù nhiều nước đã tiến hành những biện pháp hạn chế di cư ra thành phô nhằm ổn định sự phát triển, mức độ can thiệp mạnh nhẹ lại tùy theo từng quốc gia. Trong khi Trung Quốc từ mấy chục năm qua đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm kiểm soát chặt chẽ lượng nhập cư vào thành phố, Inđônêxia đã sử dụng các biện pháp ôn hòa hơn dựa trên phương thức thuyết phục và vận động thay vì sự cấm đoán. Mặc dù Thái Lan trong những năm gần đây đã áp dụng các biện pháp nhằm giảm bớt lưu lượng nhập cư vào Băng Cốc, nhưng Chính phủ Thái chứa bao giờ dùng những biện pháp hạn chế sự đi lại làm ăn của cư dân từ nơi khác đến thủ đô nước này. Những mất cân đốỉ giữa các vùng lãnh thổ và sự ưu đãi đầu tư đối với khu vực đô thị và hoạt động kinh tế dịch vụ ở 254 Thái Lan tiếp tục thu h ú t người lao động từ nông thôn ra thành phô làm ăn sinh sống. Chính phủ Philíppin rất quan tâm đến vấn đề bùng nổ dân số ồ các thành phố lớn, nhất là thủ đô Manila. Tuy nhiên, chiến lược tập trung đầu tư vào các trung tâm đô thị của Philíppin đã dẫn đến sự ra đi ồ ạt của dân số nông thôn. Mặc dù chính phủ đã có quan tâm đến việc phát triển vùng kinh tê và xây dựng các trục công nghiệp mới nằm ngoài thủ đô Manila nhằm giảm bớt sức ép nhập cư vào thành phố, các biện pháp này không giúp thay đổi được tình thế, thậm chí còn làm gia tăng những dòng nhập cư lốn hơn từ nông thôn ra thành thị. Điều này là kết qủa của sự hội nhập giữa các vùng kem phát triển với những trục công nghiệp đô thị mối nói trên ở Philíppin. Trên bình diện chính sách, có thế nói rằng những biện pháp nhằm kiểm soát di cư được áp dụng áp dụng rộng rãi ở nhiều quốic gia chứ không chỉ đơn thuần ở châu Á, bao gồm cả các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây (Oberai, 1988). Tại các quốc gia này trước thời mở cửa, việc nhập cư vào thành phô thường bị hạn chê tối đa thông qua hệ thống đăng ký nhân khẩu trong khi nhà nước lại khuyến khích sự chuyển cư từ thành phố vê nông thôn. Bên cạnh đó, các quốc gia nói trên còn tiến hành tái phân chia và phân loại thành thị nhằm ổn định cơ cấu phát triển theo kế hoạch. Những biện pháp qụản lý di cư nói trên nhằm khống chế sự tập trung dân cư tại thành phố, bởi các nhà quản.lý e ngại rằng sự phình ra của các thành phô lớn sẽ kéo theo những bất ổn định xã hội và mất cân đối trong kê hoạch. Cũng vì lý do đó mà ở các quốc gia này, chương trình tái định cư và di dân đến các vùng đất mới đã nhận được sự hỗ trợ và đầu tư mạnh mẽ của Nhà nưốc. 255 ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
xã hội học Dân số Việt Nam Nghiên cứu xã hội học Nghiên cứu về di cư Nghiên cứu dân sốTài liệu liên quan:
-
Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phần 1 - Phạm Văn Quyết
123 trang 464 11 0 -
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 266 0 0 -
67 trang 233 0 0
-
Tiểu luận 'Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội'
20 trang 182 0 0 -
Giới thiệu lý thuyết xã hội học Curriculum - Nguyễn Khánh Trung
0 trang 174 0 0 -
Giáo trình Nhập môn xã hội học: Phần 1 - TS. Trần Thị Kim Xuyến
137 trang 150 1 0 -
Tiểu luận: Quy chế dân chủ làng xã, quy chế dân chủ cơ sở
35 trang 133 0 0 -
12 trang 132 0 0
-
34 trang 116 0 0
-
TIỂU LUẬN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC ĐỨC CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX
40 trang 116 0 0