Danh mục

NGỘ ĐỘC : PHUƠNG PHÁP XỬ TRÍ CHUNG - Phần 2

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 131.42 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (12 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh Ngộ độc hiếm khi dẫn đến ngừng tim, tuy nhiên đó là một nguyên nhân rất quan trọng của tử vong nơi những người dưới 40 tuổi. Đó cũng là nguyên nhân thông thường nhất của hôn mê không do chấn thương (coma non traumatique) trong lứa tuổi này. Một ngộ độc không tự ý (intoxication involontaire) bằng thuốc hay các chất ma túy là nguyên nhân chính của nhập viện. Ngộ độc do tình cờ (intoxication accidentelle) thường xảy ra hơn nơi trẻ em. Gây ngộ độc giết người (homicide par empoisonnement) hiếm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NGỘ ĐỘC : PHUƠNG PHÁP XỬ TRÍ CHUNG - Phần 2 NGỘ ĐỘC : PHUƠNG PHÁP XỬ TRÍ CHUNG Phần 2 Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh Ngộ độc hiếm khi dẫn đến ngừng tim, tuy nhiên đó là một nguyênnhân rất quan trọng của tử vong nơi những người dưới 40 tuổi. Đó cũng lànguyên nhân thông thường nhất của hôn mê không do chấn thương (comanon traumatique) trong lứa tuổi này. Một ngộ độc không tự ý (intoxicationinvolontaire) bằng thuốc hay các chất ma túy là nguyên nhân chính c ủa nhậpviện. Ngộ độc do tình cờ (intoxication accidentelle) thường xảy ra hơn nơitrẻ em. Gây ngộ độc giết người (homicide par empoisonnement) hiếm khixảy ra. Đôi khi việc xác định xem một người đang bất tỉnh hay ngừng tim cóphải là nạn nhân của ngộ độc hay không, là điều không phải hiển nhiên. Vậyđiều quan trọng là phải loại bỏ nguyên nhân này như là nguyên nhân của hônmê. Những tai nạn kỹ nghệ hay chiến tranh có thể đưa đến một sự tiếp xúcồ ạt những sản phẩm hóa học hay những chất phóng xạ. Điều chủ yếu lànhững người cứu thương không được tiếp xúc với một chất độc nào. Phảimang các quần áo bảo vệ thích ứng. Sự khử nhiễm (décontamination) và sựvận chuyển các nạn nhân trong một môi trường không nguy hiểm thườngthuộc trách nhiệm của các dịch vụ cứu thương. A. HỒI SỨC (REANIMATION) Một điều trị hỗ trợ (traitement supportif), được căn cứ trên phươngthức ABCDE, để ngăn ngừa ngừng tim-hô hấp (arrêt cardiorespiratoire)trong khi cơ thể loại bỏ các độc chất, là mấu chốt của mọi điều trị một bệnhnhân bị ngộ độc thuốc tự ý. Sự tắc nghẽn đường khí và sự ngừng hô hấp thứphát do biến đổi tri giác là một nguyên nhân tử vong thường xảy ra. Uốngrượu quá mức thường được liên kết với một ngộ độc tự ý. - Sau khi mở và khai thông đường hô hấp, hãy kiểm tra xem bệnhnhân có thở và có bắt được mạch hay không. Hãy tránh thông khí bằngphương pháp miệng-miệng khi đứng trước các độc chất như cyanure, sulfited’hydrogène, các chất ăn mòn và các organophosphorés. Hãy thông khí bệnhnhân bằng pocket mask hay bằng quả bóng với mặt nạ (un ballon avecmasque) và với nồng độ oxy càng cao càng tốt. Đối với những thương tổnphổi do ngộ độc paraquat, ta có thể ghi nhận một sự trở nặng do nồng độ caocủa oxy ; phải điều chỉnh nồng độ oxy hít vào tùy theo pulse-oxymètre haykhí huyết động mạch (gazométrie). - Sau khi bị ngộ độc, có nguy cơ cao hít dịch dạ dày vào phổi. Nơinhững bệnh nhân bất tỉnh không thể bảo vệ đường hô hấp của mình, phảithực hiện thông nội khí quản chuỗi nối tiếp nhanh (intubation par séquencerapide) với thao tác đè sụn nhẫn (pression cricoide) để đặt ống thông nội khíquản và như thế làm giảm nguy cơ hít dịch. Điều này phải được thực hiệnbởi những người có khả năng kỹ thuật. - Hãy thực hiện những thao tác hồi sức cơ bản và cao cấp nếu ngừngtim xảy ra. - Khử rung tim (cardioversion) được chỉ định khi đứng trước nhữngloạn nhịp tim đe dọa. Cố điều chỉnh những nguyên nhân có thể đảo ngượcđược. - Hạ huyết áp gây nên bởi thuốc thường xảy ra sau một ngộ độc tự ý.Sự hạ huyết áp này thường đáp ứng với làm đầy thể tich (remplissagevolémique), nhưng đôi khi một hỗ trợ inotrope là cần thiết. - Một khi thao tác hồi sức đã bắt đầu, phải cố nhận diện độc chất gâyngộ độc. Những thân nhân, bạn bè và nhân viên xe cấp cứu thương có thểmang lại những thông tin hữu ích. Khám lâm sàng có thể cung cấp nhữnghướng chẩn đoán, tùy theo mùi, những vết chọc tĩnh mạch, các đồng tử colại thành chấm điểm, những hộp thuốc nhỏ trống rỗng các thuốc đã đượcuống, các dấu hiệu ăn mòn nơi miệng, hay những thương tổn đè ép liên kếtvới một hôn mê kéo dài. - Đo nhiệt độ của bệnh nhân : một hạ thân nhiệt hay tăng thân nhiệt cóthể xảy ra sau ngộ độc thuốc. - Tham khảo ý kiến một trung tâm chống chất độc (centre anti-poison)vùng hay quốc gia để có những thông tin về điều trị một bệnh nhân bị ngộđộc. Những trung tâm đặc biệt hiện diện trong nhiều nước khác nhau vànhững site internet có thể được tham khảo. OMS dựng lên một danh sáchcác trung tâm chống chất độc (www.who.int/ipcs/). B. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ ĐẶC HIỆU. Có ít biện pháp điều trị đặc hiệu có thể được thực hiện một cách tứcthời khi ngộ độc. Điều trị chủ yếu dựa vào trị liệu hỗ trợ (traitementsupportif) thích ứng, dựa trên sự điều chỉnh tình trạng giảm oxy mô(hypoxie), của hạ huyết áp, của sự cân bằng axít-kiềm và những rối loạnđiện giải. Những biện pháp điều trị nhằm giới hạn sự hấp thụ của các chất độcđược nuốt vào và kích thích sự thải chúng ra và đôi khi cũng có chỉ địnhdùng các thuốc giải độc đặc hiệu (antidotes spécifiques). Nếu cần có thể hỏiý kiến nơi các trung tâm chống chất độc (centre anti-poison). 1/ Than hoạt hóa (charbon de bois activé) hấp thụ vài độc chất. Việcsử dụng than hoạt hóa càng bị trì hoãn sau khi uốn ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: