Nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông – Phần 1
Số trang: 17
Loại file: pdf
Dung lượng: 155.23 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong báo Thế Kỷ 21 (số tháng 12 năm 2001, nam California, USA) ông Nguyễn văn Tuấn có đặt lại vấn đề nguồn gốc (Tàu) của dân tộc và văn minh Việt Nam sau khi ông đọc cuốn "Địa đàng ở phương Đông" của Stephen Oppenheimer. Với nhiều điểm mới dựa trên sự tổng hợp tài liệu nhiều ngành (khảo cổ học, ngữ học, di truyền học, dân tộc học) và kết quả nghiên cứu của chính Oppenheimer, "Địa đàng ở phương Đông" phát giác sự đóng góp quan trọng của vùng Đông Nam Á trong lịch sử nhân...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông – Phần 1 Nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông – Phần 1 Trong báo Thế Kỷ 21 (số tháng 12 năm 2001, nam California, USA) ông Nguyễn văn Tuấn có đặt lại vấn đề nguồn gốc (Tàu) của dân tộc và văn minh Việt Nam sau khi ông đọc cuốn Địa đàng ở phương Đông của Stephen Oppenheimer. Với nhiều điểm mới dựa trên sự tổng hợp tài liệu nhiều ngành (khảo cổ học, ngữ học, di truyền học, dân tộc học) và kết quả nghiên cứu của chính Oppenheimer, Địa đàng ở phương Đông phát giác sự đóng góp quan trọng của vùng Đông Nam Á trong lịch sử nhân loại. Ngô thế Vinh đã giới thiệu sách này trong bài Tìm về phương Đông- Địa đàng lại đánh mất trong Thế Kỷ 21 số tháng tư năm 2000. Việc Nguyễn văn Tuấn (NVT) tóm tắt cuốn sách đồ sộ này (560 trang với kiểu chữ nhỏ) và thêm những dữ kiện mới thông báo rất đáng ca ngợi. Những thuyết mới về nguồn gốc dân tộc khi được thông báo cho cộng đồng người Việt Nam giúp hiểu thêm về cội nguồn tổ tiên, xóa bỏ mặc cảm tự ti (nếu có). Tuy nhi ên, do tầm quan trọng của vấn đề, khi sử dụng những số liệu và dữ kiện để chứng minh quan điểm của mình, có lẽ chúng ta cần thận trọng để tránh các bẫy rập tự tôn, duy chủng tộc, duy dân tộc quá khích. * Tự tôn dân tộc - tự tôn chủng tộc. Người Tàu rất tự tôn, không riêng ở cái tên Trung Quốc tự xưng, mà còn vì thói quen hay tự nhận là người đầu tiên sáng chế ra nhiều thứ (dù có phần nào sự thật). Tính tự tôn này đôi khi cũng thể hiện trong lãnh vực khoa học. Một số khoa học gia Trung Quốc muốn chứng minh đất Trung Hoa là nơi phát sinh ra giống dân Á châu, và văn minh tộc Hán là văn minh trung tâm thế giới. Họ cố tình che dấu, giảm thiểu, hay vơ chung vào văn minh tộc Hán những nền văn minh rực rỡ cổ xưa tìm thấy trên đất Trung Hoa nhưng không thuộc vùng ảnh hưởng Hán tộc. Điển hình là trường hợp văn minh Sanxingdui phía bắc Thành Đô (Chengdu, thuộc tỉnhTứ Xuyên), phía nam thượng lưu sông Dương tử. Năm 1986, một nhóm thợ lò gạch tình cờ tìm được một hố tế lễ chứa đầy đồ đồng, vàng và ngọc thạch. Khi đoàn khảo cổ Tứ Xuyên đến đó khai quật, họ tìm ra hố thứ hai. Tổng số đồ vật trên 800 món, với nhiều thức tuyệt xảo bằng đồng, kích thước to, trong đó có tượng người cao bằng người thật (1.72 m), nhiều đầu người và mặt nạ bằng đồng. Đây là tượng đồng to nhất tìm thấy ở Trung Hoa. Tượng có mắt to và xếch, mũi lớn, lông mày rậm dày và miệng thật rộng, rõ ràng không phải chân dung tiêu biểu người Hán. Hơn nữa nền văn minh đời Thương, là văn minh cổ nhất của Tàu, không hề có đồ đồng mang dạng người. Trung Hoa xem đó là cổ vật thuộc nhóm dân Ba- Thục, và xếp chúng vào thời đại cuối thời Thương. Một nhóm khảo cổ Hoa Nhật khám phá ra thêm một thứ đền kim tự tháp ở Longma, phía tây- nam Thành Đô, có cùng những đường nét văn hóa. Đền này nằm tại trung tâm thành cổ, trong khi đền thờ, nơi tế lễ cổ và thuần Trung Quốc (Hán) đều nằm ngoài vòng thành. Các nhà khảo cổ Nhật ước tính tuổi cho nền văn minh này là 3000 đến 4700 năm về trước. Khám phá này được công bố ở Kyoto, Nhật vào tháng 10 năm 1996, hình ảnh được đăng trên những báo lớn và sau đó trong những sách, báo Anh và Pháp ngữ, trong khi báo Trung Hoa không hề đăng, và rất ít thường dân Tàu biết đến tin này. Trên thực tế, Trung Hoa không muốn chấp nhận sự hiện diện một nền văn minh khác, rực rỡ và xưa hơn văn minh Hán tộc vốn dĩ được xem là văn minh gốc của cả nước. Vào nửa đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ Ấu châu đặc biệt chú trọng đến việc khai quật các di tích tiền sử ở những nước thuộc địa. Nhưng vì dựa vào mô hình các giai đoạn phát triển kĩ thuật ở châu Ấu để nghiên cứu các dữ kiện khảo cổ nên họ đã đưa đến những kết luận nhuộm màu ưu / duy chủng tộc trong chiều hướng tôn cao văn minh dân da trắng. Nhà khoa học Áo Heine-Geldern nổi tiếng về thuyết thiên di ở Đông Nam Á, đã cố sức chứng minh văn hoá Đông Sơn bắt nguồn từ văn hoá phương tây người Kimmer, hay người Tokhara (tức người Nhục Chi) từ vùng Hắc Hải thiên di đến (thật ra người Tokhara chỉ đến vùng nam Tây Bá Lợi Á). Mansuy, người Pháp đã phát giác ra các di vật ở Bắc Sơn (vùng Cao Bằng Lạng Sơn),- theo Hà Văn Tấn- đã gắn sự xuất hiện của kĩ thuật mài đá trong văn hoá Bắc Sơn với yếu tố tộc người da trắng có nguồn gốc phương Tây. Nhà tiền sử học Mĩ Movius xem sự kiện trường tồn của đồ đá đặc thù Á Châu Choppers/Chopping-tools là biểu hiện tính chất kém phát triển của văn hoá Đông phương so với Tây phương cùng thời. Coedès, hàn lâm viện sĩ Pháp, từng là Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ danh tiếng, cũng cho rằng cư dân bản địa Đông Dương vốn thiếu óc sáng tạo, ít khả năng tiến hoá và khó tiến bộ nếu không có sự đóng góp của bên ngoài. Nói thẳng ra, tất cả các nhà khảo cứu này cho rằng cư dân Đông phương cổ mọi rợ, không văn minh bằng cư dân Tây phương cổ. Vô tình hay hữu ý, các nhà khoa học thời đó đưa ra những lí lẽ biện minh cho chính sách thuộc địa mà kết luận đưa ra là dân Tây phương ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông – Phần 1 Nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông – Phần 1 Trong báo Thế Kỷ 21 (số tháng 12 năm 2001, nam California, USA) ông Nguyễn văn Tuấn có đặt lại vấn đề nguồn gốc (Tàu) của dân tộc và văn minh Việt Nam sau khi ông đọc cuốn Địa đàng ở phương Đông của Stephen Oppenheimer. Với nhiều điểm mới dựa trên sự tổng hợp tài liệu nhiều ngành (khảo cổ học, ngữ học, di truyền học, dân tộc học) và kết quả nghiên cứu của chính Oppenheimer, Địa đàng ở phương Đông phát giác sự đóng góp quan trọng của vùng Đông Nam Á trong lịch sử nhân loại. Ngô thế Vinh đã giới thiệu sách này trong bài Tìm về phương Đông- Địa đàng lại đánh mất trong Thế Kỷ 21 số tháng tư năm 2000. Việc Nguyễn văn Tuấn (NVT) tóm tắt cuốn sách đồ sộ này (560 trang với kiểu chữ nhỏ) và thêm những dữ kiện mới thông báo rất đáng ca ngợi. Những thuyết mới về nguồn gốc dân tộc khi được thông báo cho cộng đồng người Việt Nam giúp hiểu thêm về cội nguồn tổ tiên, xóa bỏ mặc cảm tự ti (nếu có). Tuy nhi ên, do tầm quan trọng của vấn đề, khi sử dụng những số liệu và dữ kiện để chứng minh quan điểm của mình, có lẽ chúng ta cần thận trọng để tránh các bẫy rập tự tôn, duy chủng tộc, duy dân tộc quá khích. * Tự tôn dân tộc - tự tôn chủng tộc. Người Tàu rất tự tôn, không riêng ở cái tên Trung Quốc tự xưng, mà còn vì thói quen hay tự nhận là người đầu tiên sáng chế ra nhiều thứ (dù có phần nào sự thật). Tính tự tôn này đôi khi cũng thể hiện trong lãnh vực khoa học. Một số khoa học gia Trung Quốc muốn chứng minh đất Trung Hoa là nơi phát sinh ra giống dân Á châu, và văn minh tộc Hán là văn minh trung tâm thế giới. Họ cố tình che dấu, giảm thiểu, hay vơ chung vào văn minh tộc Hán những nền văn minh rực rỡ cổ xưa tìm thấy trên đất Trung Hoa nhưng không thuộc vùng ảnh hưởng Hán tộc. Điển hình là trường hợp văn minh Sanxingdui phía bắc Thành Đô (Chengdu, thuộc tỉnhTứ Xuyên), phía nam thượng lưu sông Dương tử. Năm 1986, một nhóm thợ lò gạch tình cờ tìm được một hố tế lễ chứa đầy đồ đồng, vàng và ngọc thạch. Khi đoàn khảo cổ Tứ Xuyên đến đó khai quật, họ tìm ra hố thứ hai. Tổng số đồ vật trên 800 món, với nhiều thức tuyệt xảo bằng đồng, kích thước to, trong đó có tượng người cao bằng người thật (1.72 m), nhiều đầu người và mặt nạ bằng đồng. Đây là tượng đồng to nhất tìm thấy ở Trung Hoa. Tượng có mắt to và xếch, mũi lớn, lông mày rậm dày và miệng thật rộng, rõ ràng không phải chân dung tiêu biểu người Hán. Hơn nữa nền văn minh đời Thương, là văn minh cổ nhất của Tàu, không hề có đồ đồng mang dạng người. Trung Hoa xem đó là cổ vật thuộc nhóm dân Ba- Thục, và xếp chúng vào thời đại cuối thời Thương. Một nhóm khảo cổ Hoa Nhật khám phá ra thêm một thứ đền kim tự tháp ở Longma, phía tây- nam Thành Đô, có cùng những đường nét văn hóa. Đền này nằm tại trung tâm thành cổ, trong khi đền thờ, nơi tế lễ cổ và thuần Trung Quốc (Hán) đều nằm ngoài vòng thành. Các nhà khảo cổ Nhật ước tính tuổi cho nền văn minh này là 3000 đến 4700 năm về trước. Khám phá này được công bố ở Kyoto, Nhật vào tháng 10 năm 1996, hình ảnh được đăng trên những báo lớn và sau đó trong những sách, báo Anh và Pháp ngữ, trong khi báo Trung Hoa không hề đăng, và rất ít thường dân Tàu biết đến tin này. Trên thực tế, Trung Hoa không muốn chấp nhận sự hiện diện một nền văn minh khác, rực rỡ và xưa hơn văn minh Hán tộc vốn dĩ được xem là văn minh gốc của cả nước. Vào nửa đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ Ấu châu đặc biệt chú trọng đến việc khai quật các di tích tiền sử ở những nước thuộc địa. Nhưng vì dựa vào mô hình các giai đoạn phát triển kĩ thuật ở châu Ấu để nghiên cứu các dữ kiện khảo cổ nên họ đã đưa đến những kết luận nhuộm màu ưu / duy chủng tộc trong chiều hướng tôn cao văn minh dân da trắng. Nhà khoa học Áo Heine-Geldern nổi tiếng về thuyết thiên di ở Đông Nam Á, đã cố sức chứng minh văn hoá Đông Sơn bắt nguồn từ văn hoá phương tây người Kimmer, hay người Tokhara (tức người Nhục Chi) từ vùng Hắc Hải thiên di đến (thật ra người Tokhara chỉ đến vùng nam Tây Bá Lợi Á). Mansuy, người Pháp đã phát giác ra các di vật ở Bắc Sơn (vùng Cao Bằng Lạng Sơn),- theo Hà Văn Tấn- đã gắn sự xuất hiện của kĩ thuật mài đá trong văn hoá Bắc Sơn với yếu tố tộc người da trắng có nguồn gốc phương Tây. Nhà tiền sử học Mĩ Movius xem sự kiện trường tồn của đồ đá đặc thù Á Châu Choppers/Chopping-tools là biểu hiện tính chất kém phát triển của văn hoá Đông phương so với Tây phương cùng thời. Coedès, hàn lâm viện sĩ Pháp, từng là Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ danh tiếng, cũng cho rằng cư dân bản địa Đông Dương vốn thiếu óc sáng tạo, ít khả năng tiến hoá và khó tiến bộ nếu không có sự đóng góp của bên ngoài. Nói thẳng ra, tất cả các nhà khảo cứu này cho rằng cư dân Đông phương cổ mọi rợ, không văn minh bằng cư dân Tây phương cổ. Vô tình hay hữu ý, các nhà khoa học thời đó đưa ra những lí lẽ biện minh cho chính sách thuộc địa mà kết luận đưa ra là dân Tây phương ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lich sừ việt nam lịch sử thế giới tài liệu lịch sử nghiên cứu lịch sử chuyên ngành lịch sửGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 144 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 95 1 0 -
69 trang 72 0 0
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ (Tiếp theo)
19 trang 61 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 56 0 0 -
11 trang 47 0 0
-
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 44 0 0 -
26 trang 42 0 0
-
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 42 0 0