Danh mục

Nguyễn Thị Du

Số trang: 25      Loại file: pdf      Dung lượng: 226.35 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 16,000 VND Tải xuống file đầy đủ (25 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vị nữ Trạng nguyên có một không hai của nước ta vốn tên là Nguyễn thị Du, song Vũ Phương Đề, người đầu tiên viết về bà, từ thế kỷ thứ XVIII, chỉ cho biết bà họ Nguyễn; Đại Nam Nhất Thống Chí và Trần Lê Sáng chép bà tên Nguyễn thị Duệ (1); Bùi Hạnh Cẩn đưa ra tên Nguyễn thị Niên (2); Đông Châu ngoài tên Nguyễn thị Du còn ghi thêm tên Nguyễn Ngọc Toàn (3).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguyễn Thị Du Nguyễn Thị DuVị nữ Trạng nguyên có một không hai của nước ta vốn tên là Nguyễn thị Du, songVũ Phương Đề, người đầu tiên viết về bà, từ thế kỷ thứ XVIII, chỉ cho biết bà họNguyễn; Đại Nam Nhất Thống Chí và Trần Lê Sáng chép bà tên Nguyễn thị Duệ(1); Bùi Hạnh Cẩn đưa ra tên Nguyễn thị Niên (2); Đông Châu ngoài tên Nguyễnthị Du còn ghi thêm tên Nguyễn Ngọc Toàn (3).I - Thân thế: Nhất kính chiếu tam vươngBà sinh quán ở làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bùi Hạnh Cẩnchép bà người xứ Đông).Năm 10 tuổi (Đồ Nam Nguyễn Trọng Thuật ghi là năm 20 tuổi) bà theo cha tịnạn lên Cao Bằng, lúc ấy tuy họ Trịnh đã đánh bại họ Mạc, chiếm lại kinh đô,nhưng lòng dân theo họ Mạc còn đông.Bà là người tuyệt sắc, lại rất thông minh, 10 tuổi đã biết làm văn bài. Ông thân bàtiếc tài con gái, cho cải nam trang đi học. Năm 17 tuổi, chúa Mạc mở khoa thi, sĩtử tham dự rất đông, bà đỗ thủ khoa (4), còn chính thầy học của bà chỉ đỗ thứ hai.Có lẽ vì thiếu tài liệu, không thấy Phan Huy Chú ghi chép những khoa thi cuối củanhà Mạc ở Cao Bằng, nên không rõ đích xác bà đỗ năm nào.Khi dự yến đãi các tân khoa, chúa Mạc thấy nhan sắc và phong cách của bà sinhlòng ngờ vực, gạn hỏi và khám phá ra bà là gái giả trai, bèn nạp cung phong làmTinh Phi (Sao Sa) ngụ ý khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao. Thờixưa phụ nữ không được phép đi thi, thậm chí dự một buổi bình văn ở nhà Giám(Quốc Tử Giám) cũng không được (Phạm Đình Hổ, Vũ Trung Tuỳ Bút), bà cảitrang đi thi như thế là phạm tội khi quân, nhưng chúa Mạc không những khôngtrừng phạt mà còn nạp cung, phong tước phi, tỏ ra rất quý trọng tài sắc bà.Nhà Mạc mất, bà vào rừng ẩn náu, bị quân Trịnh bắt được. Bà chống gươm xuốngđất nói :Các ngươi bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp chúa của các ngươi, nếu vôlễ thì với lưỡi gươm này ta sẽ tự tử. Quân Trịnh bèn giải bà về nộp chúa NghịVương, chúa rất sủng ái.Về già bà xuất gia đi tu ở chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền.Nghị Vương mất, con là Dương Vương lên nối ngôi, triệu bà ra giữ chức Lễ Sưdậy cung nhân, nên người ta cũng gọi bà là Lễ Phi (Lễ là danh hiệu, tước vị làChiêu Nghi, cao nhất trong 9 bậc cung tần, dưới loại phi) (5).Bà thường viện dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch, cả hai chúa Trịnhđều khen ngợi, trọng vọng. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa chúa đều nhờ bàkhảo duyệt lại. Khoa Tân M ùi (1631) em họ ngoại bà là Nguyễn Minh Triết, sauđổi tên là Nguyễn Thọ Xuân, ứng chế xong bảo với bạn hữu :Bài của tôi viết, cảtriều chưa dễ mấy ai hiểu, có chăng chỉ bà chị tôi là bà Lễ Phi hiểu được mà thôi.Quả nhiên, bài đưa ra nhiều điển lạ, quan tr ường không hiểu hết, chúa hỏi thì bà lýgiải cặn kẽ, chúa cho Xuân đỗ đầu. (Năm 1647, Xuân l àm đến chức Tả Thị langbộ Hộ, sau thăng đến chức Thượng thư, Thiếu bảo Cẩn quận công, thọ hơn 90tuổi).Tương truyền nhà bà có ngôi tiên phần ở núi Trì Ngư, thuộc kiểu đất Nhất kínhchiếu tam vương (một gương soi ba vương), bà thờ ba đời chúa chính ứng với điềunày.Năm 70 tuổi bà xin về làng, dựng am Đàm Hoa để ở, lại được cấp các thuế tronglàng làm ngụ lộc.Bà mất năm 80 tuổi, táng ở núi Trì Ngôi (Ngư ?) làng Kiệt Đặc. Ngọn tháp xâytrên mộ gọi là Tinh Phi cổ tháp, được liệt vào hạng Chí Linh Bát Cổ, có khắcmười chữ trên bia :Lễ Phi sinh thông tuệ, nhất kính chiếu tam vương.Trong bia Chí Linh Bát Cổ cũng ghi lại bài thơ đề trên Tinh Phi cổ tháp :Ngọc thủ chiết cao chi,Kính nhan lưu cố thấp;Tùng cổ thử giang sơn,Chí kim kỷ minh giáp;Hoa thảo tự khai tạ,Ngư tiều tương vấn đáp;Sơn sắc chính thanh hương,Thu thanh hà tiêu táp.Đại ý : Một cái tay ngọc ngà vin bẻ cành đan quế thứ nhất khi xưa kia, nay thìtrên cái kiểu đất hình mặt gương này còn lưu lại với đời một toà tháp cổ. Giangsơn này từ bấy lâu nay trải bao năm tháng mà đổi với cái cảnh cổ tháp này, chỉ cóhoa kia tự khai khai tạ cùng ông ngư phủ, chú tiều phu khi qua tới mà cùng nhautrò chuyện mà thôi. Đang khi ta viếng cảnh nhớ người, núi non xanh ngắt mộtmàu, bỗng đâu xào xạt tiếng gió thu, giục lòng khách thương kim tự tích.Bài thơ này do Nguyễn Trọng Thuật sao chép lại (Nam Phong số 161, 1931) khiấy cổ tháp không còn dấu vết, duy chỉ có một ngôi chùa nhỏ (am ?) làng Kiệt Đặccòn thờ tượng bà. Trên bàn có bức hoành đề hai chữ Hoa Am và một đôi câu đối:Giáp khoa tiên chiếm Cao Bình bảng,Đại bút do truyền bát cổ bi.Lại có một cái bia do chúa Trịnh (Dương Vương ?) tặng phong là Chính vươngphủ thị nội cung tần đức lão Lễ Sư. Chúa cấp ruộng hương hỏa để thờ bà.Sự tích bà còn ghi trong Chí Linh phong thổ ký. Làng Kiệt Đặc thờ bà làm thần. II - Sự nghiệp văn chươngBà giỏi cả Hán văn lẫn quốc âm, sáng tác nhiều, tiếc rằng ngay từ thế kỷ XVIII đ ãbị thất lạc gần hết (theo Vũ Phương Đề). Văn thơ bà có tiếng là hay, song nhữngcâu còn được lưu truyền lại không mấy xuất sắc, nhưng cũng xin chép ra ...

Tài liệu được xem nhiều: