Danh mục

Nhà Hậu Trần

Số trang: 8      Loại file: doc      Dung lượng: 100.00 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhà Hậu Trần (1407 – 1413) (chữ Hán: 後陳朝 (Hậu Trần Triều)) là một giai đoạn lịch sử của Việt Nam mà các sách sử vẫn chưa thống nhất cách gọi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư (viết tắt: ĐVSKTT) thì gọi là nhà Hậu Trần, còn Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (viết tắt: CM) thì hoàn toàn không nói đến cụm từ này mà chỉ thuật lại sự việc trong những năm đó. Ở đây, theo sách ĐVSKTT nên gọi là nhà Hậu Trần....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhà Hậu Trần Nhà Hậu TrầnNhà Hậu Trần (1407 – 1413) (chữ Hán: : ( (Hậu Trần Triều)) làmột giai đoạn lịch sử của Việt Nam mà các sách sử vẫn chưa thốngnhất cách gọi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư (viết tắt: ĐVSKTT) thìgọi là nhà Hậu Trần, còn Khâm định Việt sử Thông giám cương mục(viết tắt: CM) thì hoàn toàn không nói đến cụm từ này mà chỉ thuật lạisự việc trong những năm đó. Ở đây, theo sách ĐVSKTT nên gọi là nhàHậu Trần.Nhà Hậu Trần thành lập tháng 10 âm lịch năm 1407 sau khi nhà nướcĐại Ngu của nhà Hồ bị quân đội của nhà Minh xâm chiếm và tiêudiệt. Trong thời kỳ này, nước Đại Ngu bị nhà Minh đổi tên trở lạithành Giao Chỉ và chia thành 17 phủ, 5 châu và 12 vệ trực thuộc ti BốChính. Dù chỉ tồn tại có 6 năm và trên thực tế là không có chủ quyềnthực sự trên toàn lãnh thổ, nhưng nhà Hậu Trần đã để lại nhiều bàihọc quý báu về công cuộc giữ nước.Khởi binh chống quân MinhKhi nhà Minh mới tiêu diệt nhà Hồ thì lòng dân trong nước vẫn khôngyên, khắp nơi nổi lên chống lại. Trần Ngỗi là con trai vua Trần NghệTông (1321-1394). Khi ông chạy đến Mô Độ, Trường Yên thì ngườiphủ Thiên Trường là Trần Triệu Cơ dựng ông làm vua- xưng là GiảnĐịnh Đế, đặt niên hiệu là Hưng Khánh.Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: Mùa đông tháng 10 ngày mồng 2,Giản Định Đế lên ngôi ở Mô Độ châu Trường Yên, dựng niên hiệu làHưng Khánh. Trước là Trương Phụ yết bảng bắt những người tônthất nhà Trần và cựu thần đầu mục đem về. Vua trốn đến Mô Độ.Người phủ Thiên Trường là Trần Triệu Cơ đem quân đến tập xưngtheo hiệu cũ. Tháng 4, quân Minh đánh vào hành dinh, vì là quân mớichiêu tập, không đánh mà tan. Vua bèn đi về miền Tây, tạm đóng ởNghệ An. Đại chi châu châu Hóa là Đặng Tất nghe tin giết chết quannhà Minh đem quân đến họp với vua, tiến con gái sung vào hậu cung.Vua phong Tất làm quốc công, cùng nhau mưu việc khôi phục.Được Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân giúp sức, quân Trần đánhthắng quân Minh và các ngụy quan nhiều trận, giải phóng một vùngrộng lớn từ Thanh Hoá vào tới Thuận Hoá.[sửa] Trận Bô CôTháng Chạp năm Mậu Tý (1408), Giản Định Đế hội tất cả quânThuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa, rồi tiến rađánh Đông Đô. Quân ra đến Trường An (Ninh Bình) thì các quan thuộcvà những kẻ hào kiệt ở các nơi ra theo nhiều lắm.Quân nhà Minh đem tin ấy về báo cho vua Minh Thành Tổ Chu Đệbiết. Chu Đệ sai Mộc Thạnh đem 40.000 quân ở Vân Nam sang đánh.Quân Minh cũng điều động 20.000 thủy quân tại Trung Quốc sẵn sàngsang tiếp chiến. Thêm vào đó, tiếp vận sứ Minh là Sun Quan từQuảng Đông sang với 10.000 quân vận tải cũng được tạm thời trưngdụng để tham gia phòng vệ. Các đội quân thổ binh cơ động bản xứ,đông tới 2000 người, cũng được điều động để kịp thời ứng cứu nhữngnơi nguy cấp.[1] Mộc Thạnh cùng với quan đô chưởng là Lữ Nghị vàođến bến Bô Cô (thuộc xã Hiếu Cổ, huyện Phong Doanh) thì gặp quânHậu Trần. Hai bên giao chiến, Giản Định Đế tự cầm trống thúc quân,tướng sĩ ai nấy hết sức xung phong, phá tan được quân nhà Minh,chém được Lữ Nghị ở trận tiền và đuổi Mộc Thạnh về đến thành CổLộng (thành nhà Minh xây tại khu vực ngày nay là làng Bình Cách,huyện Ý Yên).Bấy giờ Giản Định Đế muốn thừa thắng đánh tràn ra để lấy lại ĐôngQuan (tức Đông Đô, Hà Nội). Nhưng Đặng Tất ngăn lại, muốn để đợiquân các lộ về hội đông đủ, rồi sẽ ra đánh. Từ đó vua tôi không đượchòa thuận. Giản Định Đế lại nghe người nói gièm, cho rằng Tấtkhông muốn giải phóng Đông Quan vì có ý khác. Vì vậy tháng 3 năm1409, Giản Định Đế bắt Đặng Tất và quan tham mưu là NguyễnCảnh Chân đem giết đi, thành ra lòng người ai cũng chán nản, khôngcó lòng giúp nữa.[sửa] Chia rẽ nội bộTháng 3 âm lịch năm 1409, sau khi Giản Định Đế giết Đặng Tất vàNguyễn Cảnh Chân thì các con của hai ông là Đặng Dung và NguyễnCảnh Dị bỏ đi, đón Trần Quý Khoáng (cháu nội Trần Nghệ Tông vàgọi Giản Định Đế là chú) ra làm vua tại Chi La, Nghệ An, tức làTrùng Quang Đế. Để tránh tình trạng phân tán lực lượng, TrùngQuang Đế sai tướng Nguyễn Suý mang quân đánh úp bắt Giản Địnhđế về, tôn làm thái thượng hoàng.Tuy được ngồi ở ngôi cao nhưng Giản Định Đế không bằng lòng bịquản chế và nhất là đã gây bất hòa với hai tướng chủ chốt họ Đặng,họ Nguyễn. Cuối năm 1409, nhân khi vua và thượng hoàng chia quânlàm hai cánh đi đánh quân Minh, ông mang lực lượng bản bộ gồmnhững người thân tín tự trốn khỏi quân Trung Quang Đế, muốn khôiphục cơ đồ riêng thì bị quân Minh bắt được và sau đó bị giết. Các nhàsử học cho rằng Trần Ngỗi thất bại do vua không có tài dẹp loạn, lạigiết bỏ người giúp mình, tự chuốc lấy diệt vong, chẳng phải vì khôngmay (Đại Việt Sử ký Toàn thư)[sửa] Quân Minh phản côngQuân Minh sau trận đại bại ở Bô Cô, Mộc Thạnh phải chạy về cốthủ ở thành Đông Quan. Tháng 7 năm 1409, Thượng hoàng Trần Ngỗivà vua Trùng Quang chia quân hai đường đánh quân Minh. Thượnghoàng đóng ở Hạ Hồng (Ninh Giang), Trùng Quang đế đóng ở BìnhThan. Quân Minh cố thủ không dám ra đánh.Được tinh Mộc Thạnh thất trận, ...

Tài liệu được xem nhiều: