Danh mục

Nhà Lý 1

Số trang: 14      Loại file: doc      Dung lượng: 240.50 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (14 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhà Lý hoặc Lý triều (Hán-Nôm: 家李•李朝—nhà Lí•Lí triều), còn được gọi là nhà Hậu Lý (để phân biệt với nhà Tiền Lý của Lý Nam Đế) là một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Thái Tổ lên ngôi tháng 10 âm lịch năm 1009, sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê và chấm dứt khi vua Lý Chiêu Hoàng, khi đó mới có 8 tuổi bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhà Lý 1 Nhà LýNhà Lý hoặc Lý triều (Hán-Nôm: ô ·· ô —nhà Lí·Lí triều), cònđược gọi là nhà Hậu Lý (để phân biệt với nhà Tiền Lý của Lý NamĐế) là một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khivua Thái Tổ lên ngôi tháng 10 âm lịch năm 1009, sau khi giành đượcquyền lực từ tay nhà Tiền Lê và chấm dứt khi vua Lý Chiêu Hoàng,khi đó mới có 8 tuổi bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là TrầnCảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm. Quốc hiệu Đại Việt củaViệt Nam có từ tháng 10 âm lịch năm 1054 khi vua Lý Thánh Tông lênngôi. Ở thời này có sự kiện đáng nhớ là việc dời đô từ Hoa Lư, mộtnơi xa đồng bằng Bắc Bộ, thưa dân, hiểm trở ra Đại La, rồi đặt tênmới là Thăng Long theo hình tượng con rồng, một hình tượng đặc thùcủa thời này. Quốc hiệu Đại Việt cũng được đặt ở thời kỳ này.Khái quátNgười khởi đầu cho nhà Lý là Lý Công Uẩn. Trong thời đại củavương triều này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyềnmột cách lâu dài đến hơn hai trăm năm, khác với các vương triều cũtrước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm, ngoài ra nhà Lý còn bảo toàn vàmở rộng lãnh thổ của mình. Trong nước, mặc dù các vua đều sùng báiđạo Phật, nhưng ảnh hưởng của Nho giáo đã bắt đầu lớn dần, vớiviệc mở các trường đại học đầu tiên là Văn miếu (1070) và Quốc tửgiám (1076), và các khoa thi để chọn người hiền tài không có nguồngốc xuất thân là quý tộc ra giúp nước. Khoa thi đầu tiên được mở vàonăm 1075. Về thể chế chính trị, đã có sự phân cấp quản lý rõ ràng hơnvà sự cai trị đã dựa nhiều vào pháp luật hơn là sự chuyên quyền độcđoán của cá nhân. Sự kiện nhà Lý chọn thành Đại La làm thủ đô (saulà Thăng Long tức Hà Nội ngày nay) đánh dấu sự cai trị dựa vào sứcmạnh kinh tế và lòng dân hơn là sức mạnh quân sự để phòng thủ nhưcác triều đại trước.Quân sựTổ chức quân độiQuân đội thời Lý gồm hai bộ phận: cấm quân và quân địa phương. • Cấm quân: là quân tuyển chọn từ những thanh niên khỏe mạnh trong cả nước, có nhiệm vụ bảo vệ vua và kinh thành. • Quân địa phương: Tuyển chọn trong số thanh niên trai tráng ở các làng xã đến tuổi thành đinh (18 tuổi), có nhiệm vụ canh phòng các lộ,phủ.Nhà Lý thi hành chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi binh ở nhà nông),cho quân sĩ luân phiên về cày ruộng và thanh niên đăng kí tên vào sổnhưng vẫn ở nhà sản xuất, khi cần triều đình sẽ điều động[1]. Quanđội nhà Lý có quân bộ và quân thuỷ, kỉ luật nghiêm minh, được huyấnluyện chu đáo; vũ khí trang bị cho quan đội gồm giáo mác, đao kiếm,cung nỏ, mắy bắn đá…Cuộc chiến chống TốngĐánh sang Ung châuNăm 1075, Vương An Thạch, tể tướng nhà Tống, xúi vua Tống rằngnước Đại Việt bị quân Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại khôngđầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. (Có thuyết cho rằng,nhà Tống quyết định đánh Đại Việt để củng cố lại tinh thần của quândân sau những thất bại trước quân Liêu-Hạ ở phía bắc)[2]. Vua Tốngbèn dùng Thẩm Khởi và Lưu Di làm tri phủ Quế Châu ngầm dấy binhngười Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, ngoài ra còn cấmcác châu huyện không được mua bán với Đại Việt các mặt hàng chiếnlược thời đó như sắt thép, trâu bò.Vua nhà Lý biết tin, sai Lý Thường Kiệt và Tông Đản đem hơn100.000 binh đi đánh[3]; quân thủy và quân bộ đều tiến. Lý ThườngKiệt đánh các châu Khâm, Liêm; Tông Đản vây châu Ung. Đô giámQuảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. LýThường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay là thành phố Nam Ninh,khu tự trị Choang Quảng Tây) phá tan quân dịch, chém Trương ThủTiết tại trận. Tri phủ Ung Châu là Tô Giám cố thủ không hàng. QuânĐại Việt đánh đến hơn 40 ngày, chồng bao đất trèo lên thành. Thànhbị hạ. Tô Giám cho gia thuộc 36 người chết trước, chôn xác vào hố,rồi châm lửa tự đốt chết. Người trong thành không chịu hàng, giết hếthơn 5 vạn người[3], cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thìđến hơn 100.000 người. Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấyđem về.Phòng thủ ở sông Như NguyệtNăm 1076 tháng 3, nhà Tống dùng tuyên phủ sứ Quảng Nam (QuảngĐông - Quảng Tây ngày nay) là Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, TriệuTiết làm phó, đem quân 9 tướng, 10 vạn quân tinh nhuệ, 1 vạn ngựachiến và 20 vạn dân phu, hợp với quân Chiêm Thành và quân ChânLạp sang xâm chiếm nước Đại Việt. Quân nhà Tống tiến theo haiđường thủy, bộ vào Đại Việt. Đường thủy do Hòa Mâu chỉ huy;đường bộ do Quách Quỳ chỉ huy. Ở trên sông Vân Đồn (Quảng Ninh),Lý Kế Nguyên đã chặn đánh thủy binh nhà Tống, làm thất bại kếhoạch hội quân của họ. Lý Thường Kiệt đã lập phòng tuyến ở bờnam sông Như Nguyệt, một khúc của sông Cầu đề chặn đánh. QuânTống đã nhiều lần cố gắng vượt sông nhưng đều thất bại. Quách Quỳcho đóng quân ở bờ bắc sông Như Nguyệt và chuyển sang phòng ngựnhằm chờ thời cơ. Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trươngtướng quân (Trương Hống và Trương Hát: hai vị tướng đánh giặc giỏicủa Triệu Quang Phục) có tiếng đọc to bài thơ thần mà người đời saucho rằng nó là của Lý Thường Kiệt: ...

Tài liệu được xem nhiều: