Danh mục

NHỮNG LỢI ÍCH CHỮA BỆNH ĐẦY HỨA HẸN CỦA MA-NHÊ

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 276.39 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trước nay, chúng ta thường ít chú ý tới Ma-nhê (Mg). Tuy nhiên đó là một vi chất khá dồi dào trong cơ thể và đóng vai trò rất quan trọng. Tình trạng thiếu Mg có thể là một phần nguyên nhân của nhiều căn bệnh như cao huyết áp, hen suyễn, đau nửa đầu… Từ đó, các nhà khoa học đã có hướng nghiên cứu để sử dụng Mg điều trị các bệnh này. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƯỢNG MG TRONG TẾ BÀO Phần lớn Ma-nhê nằm trong các tế bào nên khó định lượng. Gần đây, người ta đã...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHỮNG LỢI ÍCH CHỮA BỆNH ĐẦY HỨA HẸN CỦA MA-NHÊNHỮNG LỢI ÍCH CHỮABỆNH ĐẦY HỨA HẸN CỦA MA-NHÊTác giả : BS. NGUYỄN LÂN ĐÍNH Trước nay, chúng ta thường ít chú ý tới Ma-nhê (Mg). Tuy nhiên đó là một vi chất khá dồi dào trong cơ thể và đóng vai trò rất quan trọng. Tình trạng thiếu Mg có thể là một phần nguyên nhân của nhiều căn bệnh như cao huyết áp, hen suyễn, đau nửa đầu… Từ đó, các nhà khoa học đã có hướng nghiên cứu để sử dụng Mg điều trị các bệnh này. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƯỢNG MG TRONG TẾ BÀO Phần lớn Ma-nhê nằm trong các tế bào nên khó định lượng. Gần đây, người ta đã triển khai những kỹ thuật mới giúp định lượng được nồng độ Mg ở thể tự do trong tế bào, là thành phần có hoạt tính sinh học đáng chú ý nhất. Nhờ vậy, các nhà khoa học đã xem xét lại Mg với cách nhìn mới, phát hiện tình trạng thiếu Mg có thể góp phần vào nguyên nhân dẫn tới nhiều căn bệnh. Đồng thời nghiên cứusử dụng Mg trong vấn đề điều trị.MỘT SỐ BỆNH LIÊN QUAN ĐẾN THIẾU MGCao huyết áp1. Tim thiếu máu cục bộ (ischemic heart disease).2. Các chứng loạn nhịp tim (cardiac arrhythmias), đáng kểnhất là trường hợp loạn nhịp tim đặc biệt, theo từ chuyênmôn về điện tâm đồ là khi có “torsades de pointes = sóngxoắn - nhọn”; Đã được điều trị rất hiệu quả với Mg.3. Chứng tiền sản giật (pre-eclampsia) do máu nhiễm độc vàocuối thai kỳ với đặc điểm là huyết áp tăng đột ngột, tăng cânquá mức, phù toàn diện do nước tích vào các mô, đi tiểu raalbumin, nhức đầu nghiêm trọng và có rối loạn thị giác. Mặcdù đa số các bác sĩ thường coi Mg là một khoáng chất phụchứ không phải là một thuốc chữa bệnh, nhưng hiện naytrong phác đồ điều trị tiền sản giật (pre-eclampsia), Mg đãđược coi là một phương tiện không thể thiếu.4. Hen suyễn. Mg tỏ ra ngày càng có vai trò quan trọng trongđiều trị suyễn (asthma). Trong một nghiên cứu mù đôi vừađược công bố, người ta đã theo dõi 89 trẻ em tuổi từ 4-16 bịsuyễn phế quản dai dẳng ở mức từ nhẹ đến vừa. Các trẻ nàyđã được tuyển chọn và chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm theophương phápï mù đôi có kiểm soát, một nhóm được bổ sungMg, nhóm còn lại uống giả dược (placebo). Trong nhóm trẻthực nghiệm, liều Mg được bổ sung mỗi ngày là 200-290mgMg (tùy theo tuổi); Trong khi nhóm chứng trong suốt thờigian 12 tuần của cuộc nghiên cứu chỉ nhận được mỗi ngàymột viên đường. Kết quả sau thời gian được uống Mg bổsung, tình trạng bệnh suyễn ở nhóm trẻ thực nghiệm đã cónhững cải thiện rõ rệt có ý nghĩa thống kê - đủ để các tác giảđưa ra khuyến cáo nên sử dụng Mg như một “thuốc” kèmtheo để ổn định bệnh suyễn. Và hiện nay Mg đã được xem làcó tác dụng như một dược phẩm thực thụ mà không hề gây ramột tác dụng phụ nào.5. Bệnh động mạch ngoại vi: Trong một công trình nghiêncứu khác công bố trên báo Stroke (Đột quỵ) số ra tháng1/2004, 323 bệnh nhân được chẩn đoán có triệu chứng bệnhlý động mạch ngoại vi (hẹp khẩu kính động mạch chân dẫntới đau nhức). Nghiên cứu tiền cứu tiến hành như sau: Xácđịnh nồng độ Mg huyết thanh, sau đó họ được theo dõi trongthời gian trung bình 20 tháng. Khi kết thúc công trình, ngườita phân tích so sánh nhóm có mức Mg huyết thanh cao nhấtvới những người có nồng độ Mg thấp nhất. Kết quả sau khicân đối ảnh hưởng của mọi yếu tố nguy cơ, nhóm huyếtthanh có nồng độ Mg thấp có nguy cơ bị đột quỵ cao hơn gấp3 lần (tức trên 300%) so với nhóm có nồng độ Mg cao. Từ đócác tác giả kết luận là ở những bệnh nhân có triệu chứngbệnh lý động mạch ngoại vi, tình trạng Mg huyết thanh thấplà chỉ số báo hiệu gia tăng nguy cơ bị những sự cố thần kinh.6. Bệnh động mạch vành: Trong thời gian qua, cũng đã cónhiều nghiên cứu về sử dụng Mg trong điều trị bệnh độngmạch vành. Nhiều công trình nhỏ chứng minh là có lợi.Nhưng 2 công trình thử nghiệm bốc thăm ngẫu nhiên trênquy mô lớn vừa được công bố gần đây, đã không chứng minhnhóm được truyền tĩnh mạch Mg có ưu điểm nào hơn sonhóm chứng chỉ được truyền giả dược placebo! Có lẽ ngườita chỉ thấy được lợi ích của Mg qua việc bổ sung Mg bằngđường uống và theo dõi trong thời gian dài. Tuy nhiên theomột bài báo là về mặt lý thuyết, căn cứ vào những kết quảnghiên cứu đầy hứa hẹn trên súc vật và trên người, việc bổsung Mg cho thấy có tác dụng bảo vệ tim. Là một chấtkhoáng tương đối rẻ tiền, dễ vận hành, không đòi hỏi phươngphápï giám sát gì đặc biệt, lại dễ dung nạp - Mg xứng đángchiếm một vị trí quan trọng trong việc điều trị cho các bệnhnhân có vấn đề ở động mạch vành, đặc biệt là những ngườicó nguy cơ cao.7. Đau nửa đầu: Người ta đã xác định rõ ràng là: Cần có nhậplượng Mg tối ưu thì mới có được mức huyết áp, chức năngtim và thậm chí cả chức năng não bình thường. Thực vậy,nhiều nghiên cứu đã cho thấy đa số những người bị đau nửađầu (migraine headaches) có mức Mg nội tế bào thấp (lowintracellular magnesium levels). Các loại quả hạch là mộttrong những nguồn Mg dồi dào nhất, ...

Tài liệu được xem nhiều: