Chương trình dân số là một trong những phần cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, hiện nay chưa có các nghiên cứu cung cấp những cơ sở cần thiết để thiết lập các chính sách và chương trình. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài viết "Những yếu tố quyết định đến mức sinh và chương trình dân số Việt Nam" để hiểu hơn về vấn đề này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những yếu tố quyết định đến mức sinh và chương trình dân số Việt Nam - Nguyễn Minh ThắngXã hội học, số 3 - 1992 Những yếu tố quyết định đến mức sinh và chương trình dân số Việt Nam NGUYÊN MINH THẮNG Chương trình dân số là một trong những phần cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của ViệtNam. Mặc dù vậy, cuộc tổng điều tra dân số năm 1989 và các cuộc điều tra khác cho thấy tỷ lệ tăng tự nhiênvẫn ở mức cao, vào khoảng 2, 2%. Thêm nữa, mỗi năm khoảng 1 triệu ca nạo phá thai chứng tỏ sự yếu kém củachương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình, đặc biệt là trong việc lập chính sách, thực hiện và điều hành (VuQuý Nhân và các đồng tác giả, 1991). Hiện nay chưa có các nghiên cứu cung cấp những cơ sở cần thiết để thiết lập các chính sách và chươngtrình. Từ năm 1989, đã có một vài nghiên cứu về dân số Và Xã hội liên quan đến các yếu tố quyết định đến mứcsinh, sự kết hợp giữa các biến dân số vào các dự án phát triển, dự báo dân số... Nhưng những nghiên cứu nàykhông gắn với nhau và cũng không phàn ánh cụ thể các nhân tố cơ bản về khả năng sinh hoặc các phân tích vềtính thực tế của những mục tiêu của các chương trình dân số. Mục đích của bài báo này nhằm cung cấp: 1) Phương pháp phân tích những tác động đến mức sinh hiện naycho các nhà nghiên cứu dân số Việt Nam và những người xây dựng chính sách; 2) Một ví dụ được nghiên cứunhằm giúp cho những người quản lý chương trình dân số trong việc điều hành và giám sát mọi vấn đề, nhất làviệc tập trung ngân sách cho các khâu quan trọng của chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình. Dựa trên các kết quả của tổng điều tra dân số năm 1989. Điều tra về nhân khẩu học và y tế 1988 (DHS 188),các nghiên cứu hiện nay và các tài liệu khác về dân số và kế hoạch hóa gia đình, tôi đã tiến hành: 1 Xác định phương pháp phân tích những yếu tố tác động tới mục tiêu thực tế của chương trình dân số và kếhoạch hóa gia đình. 2. Xây dựng mô hình thống kê phản ánh mối quan hệ về lượng giữa xác suất của những phụ nữ có chồngsinh con trong một năm và các yếu tố ảnh hưởng tới nó. Kế hoạch hóa gia đình/ sức khỏe bà mẹ và trẻ em(FP/MCH), giáo dục, đô thi hóa, mức tử vong của trẻ em, các thái độ đối với việc sinh đẻ, khoảng cách giữa cáclần sinh và tình trạng hôn nhân. 3. Vạch rõ thực tiễn và triển vọng của các biến giải thích, bàn về những mục tiêu cơ bản của chương trìnhdân số Việt Nam giảm tỷ lệ tăng tự nhiên và tăng tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai sau khi xác định mốiquan hệ giữa một vài chỉ bảo về mức sinh - tỷ xuất sinh thô, tỷ xuất sinh chung và tỷ xuất sinh của phụ nữ đã cóchồng và số sinh trong năm. 4. Những khuyến nghị SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP Số liệu Số liệu phục vụ cho nghiên cứu này, đặc biệt là để xây dựng mô hình hồi quy logistic, được lấy từ cuộc điềutra DHS của Việt Nam (VNDHS) do Ủy ban quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình tiến hành vào mùa hènăm 1988. VNDHS đã dựa trên kết quả mẫu cấp quốc gia để cung cấp những ước lượng độc lập cho hai vùngchủ yếu của đất nước, Bắc và Nam, và cho các khu vực thành thị và nông thôi. Tổng số 151 phường, xã của 12tỉnh (cả nước) được chọn một cách ngẫu nhiên như là các chùm mẫu. Từ 151 chùm này, 4806 hộ được chọn vớitổng số 25386 nhân khẩu. Có 4172 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15 - 49) đã từng có chồng đã được xác định làđối tượng phỏng vấn. Mặc dù vậy, trong nghiên cứu này chỉ xét đến 3734 phụ nữ hiện có chồng, vì điểm chínhcủa nghiên cứu này là mối quan hệ giữa tỷ xuất sinh chung sau hôn nhân và các biến giải thích của nó. Tôi cũng sử dụng kết quả điều tra năm 1989 do Ban chỉ đạo điều tra dân số Trung ương xuất bản năm 1990 Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn Xã hội học, số 3 - 1992(Tổng cục thống kê 1990) và báo cáo của ủy ban quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình về các hoạt động củadân số và kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam 1979 - 1989 và kế hoạch cho năm 1990 và 1991 - 1995 tại Hội nghịDân số Việt Nam, tháng 4-1990 (NCPFP, 1990) để phân tích thực tiễn và triển vọng của các biến giải thích vànhững ảnh hưởng của chúng tới các mục tiêu của chương trình dân số khi mô hình hồi qui được thiết lập. Những phương pháp nhân khẩu học Nghiên cứu này áp dụng mối liên hệ giữa các chỉ báo thống kê về mức sinh (tỷ suất sinh thô, tỷ suất sinhchung và tỷ suất sinh của những phụ nữ có chồng) và các chỉ số về phân bố dân số để đưa ra một phương phápphân tích và dự báo những thay đổi của tỷ suất sinh thông qua việc thống kê mỗi đơn vị cá thể trong điều tranhân khẩu học và y tế. Phương pháp này dựa trên một hàm được tạo ra để phản ánh mối quan hệ giữa các chỉtiêu tổng hợp và giá trị của mỗi đơn vị cá thể trong mẫu điều tra. Bởi thế, phương pháp như vậy thích hợp vớimẫu nhỏ mà mẫu đó không cho phép xây dựng phép hồi quy giữa các chỉ tiêu tổng hợp ...