2. Bốn câu tiếp theo trong phần "thực" và "luận" đối nhau từng cặp một. Nhà thơ tạo nên 4 hình ảnh so sánh ẩn dụ để miêu tả Dục Thuý Sơn là non tiên: N hư đoá sen nổi trên mặt nước. Như cảnh tiên rơi xuống cõi trần. Bóng tháp như chiếc trâm bằng ngọc xanh. Ánh sáng trên sông nước như chiếc gương soi mái tóc xanh biếc. Trên núi có chùa, có tháp nên mới tả, mới so sánh với trâm ngọc, với gương soi mái tóc xanh biếc. Trâm và gương ấy là của tiên...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ôn tập văn học 10 part 7 2. Bốn câu tiếp theo trong phần thực và luận đối nhau từng cặp một. Nhà thơ tạo nên4 h ình ảnh so sánh ẩn dụ đểmiêu tả Dục Thuý Sơn là non tiên: N hư đoá sen nổ i trên m ặt nước. Như cảnh tiên rơi xuốngcõi trần.Bóng tháp như chiếc trâm b ằng ngọc xanh. Ánh sáng trên sông nước như chiếc gương soimái tóc xanh biếc. Trên núi cóchùa, có tháp nên mới tả, m ới so sánh với trâm ngọc, với gương soi mái tóc xanh biếc. Trâmvà gương ấy là củ a tiên nữ nơinon tiên. Cảnh đẹp thơ mộng, th ần tiên. Bút tháp tài hoa lãng mạn. Thơ hàm súc, giàu hìnhtượng:Liên hoan phù thủ y thượngTiên cảnh trụ y trần gianTháp ảnh trâm thanh ngọc,Ba quang kính thuý hoàn. Câu 8 có phù (n ổi) câu 4 đối lại trụ y (rơi xuống); câu 5 là trâm thanh ngọc, câu 6lại có kính thuý hoàn thật là tươngứng, hoà hợp. Yếu tố tưởng tượng tạo nên chất thơ tuyệt đẹp. 3. Hai câu kết thể h iện mộ t tấm lòng đầy tình nghĩa. Hữu hoài là nhớ mãi. Ch ỉ nh ắc lạihọ Trương, tước hiệu Thái bảo- mộ t cách nói đ ầy kính trọng với Trương Hán Siêu, m ột danh sĩ thời Trần, người đã đổi tênnúi từ Băng Sơn thành Dụ c ThuýSơn, đã làm bài Dục Thuý Sơn khắc thạch và Dục Thuý Sơn Linh Tế tháp kí. Nhìn biađá phủ rêu, Nguyễn Trãi nhớ đ ếncông đức tiền nhân. Hai câu thơ 10 từ chứa chan cảm xúc và tình ngh ĩa:Hữu hoài Trương Thiếu bảo,Bi kh ắc tiển hoa ban III. Tổ ng kết Dụ c Thuý S ơn là mộ t trong những bài thơ chữ Hán tuyệt bút của Ức Trai, thuộc đề tàivịnh phong cảnh núi sông cẩm tú.Yêu thiên nhiên, yêu đất nước, nhớ công đứ c người xưa là cảm hứ ng chủ đạo của Ứ c Trai.Bốn câu trong phần thực và lu ậnlà đẹp nhất, hay nhất, th ể h iện cốt cách tài hoa của thi sĩ - chất tiên phong đạo cốt của Ứ cTrai.Ngụ hứng ở quán Trung Tân (Trung tân ngụ hứng) (Nguyễn Bỉnh Khiêm)Ngu yễn Bỉnh KhiêmSông ngòi vòng tây bắcLàng xóm bọc tây namGiữa có nửa mẫu vườnVườn ở bên Vân AmXe ngựa bụ i không đếnHoa, trúc tay tự giồng:Gậy, dép bén mùi hoa,Chén, cốc ánh sắc hồng.Rửa nghiên, cá nuố t mự c,Pha trà, chim lánh khói.Ngâm thơ thừ a tiêu dao.Uống rượu thêm khoan khoái.Người xảo thì ta vụng,Ấy vụng thế mà hay!Ta vụng người thì xảoẤy xảo thế mà gay!Tính suy lẽ trời đất,N ghiền ngẫm việc xưa nay:Đường đời rất gập ghềnh,Chông gai cần phải cắt.Lòng người rất hiểm nghèo,Buông ra nh iều quái quắc.Quân tử biết răn mình,C hí thiện làm mẫu mực. Ngô Lập Chi dịch I. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 -1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, HảiPhòng. Học giỏ i, đỗ trạng nguyên.Ông có câu thơ: Văn thơ tam thư ợng tiếu tài sơ, nghĩa là ba lần đỗ đ ầu vẫn cười mình tàitầm thường. Làm quan dưới triềuMạc một thời gian rồi treo ấn từ quan, về quê dự ng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cưsĩ, lập quán Trung Tân, xâyNghinh Phong kiều, mở trường d ạy họ c có nhiều người nổ i tiếng như: Phùng Khắc Khoan,(Trạng Bùng), Nguyễn Dữ.... Ôngđức trọng, tài cao, được người đời kính ái gọ i là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông m ất, vua nhàMạc truy phong là Trình QuốcCông.Nguyễn Bỉnh K hiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kí linh diệu, là nhà thơ lỗi lạccủ a dân tộc trong thế kỷ 16. Thơ ônghàm súc, hàm chứa chất triết lí, giáo hu ấn, thương dân, lo đ ời, ghét chiến tranh. Những câuthơ viết về thiên nhiên rất tươi tắn,thú vị. Hiện còn gần 200 bài thơ Nôm trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập và trên 1.000 bàithơ ch ữ Hán trong Bạch VânAm tập”. II. Lời bình Năm Nhâm Dần (1548), Nguyễn Bỉnh Khiêm thoái quan về sống giữa xóm làng quêhương. Mùa thu năm ấy, ông cùngcác bô lão dựng quán Trung Tân làm chỗ ngồ i chơi hóng gió và đ ể khách qua đường nghỉchân. Trong Bài bia ở quán TrungTân, Nguyễn Bỉnh K hiêm nói rõ: Có người hỏi rằng: Q uán ấy đặt tên Trung Tân có ngh ĩa là gì?. Ta trả lời rằng:Trung nghĩa là đứng giữ a khôngchênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ vẹn được điều thiện th ời không phảilà trung vậy; tân có nghĩa là cáibến, không biết chỗ đ áng đ ậu là bến mê vậy..... Trạng Trình có chùm thơ 3 bài lấy nhan đ ề Trung Tân ngụ hứng; Bài thơ thứ nhất nàygồm 24 câu thơ theo thể ngũ ngôntrường thiên, lấy vần trắc (b ắc - trắc - thực - sắc,....) làm âm vận chủ đ ạo. Bài thơ dịch củaNgô Lập Chi rất hay, vừa giữđược nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đố i.Hai câu đầu nói lên vị trí quán Trung Tân:Sông ngòi vòng tây b ắcLàng xóm bọc tây nam. Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong Bài bia ởquán Trung Tân tác giả cho biếtrất cụ thể.... Bến Trung Tân, trông sang phía Đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía Tâynhìn Tây Kinh; bên nam trông sangNgư Khê, th ì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh tựa vào nhau; bên bắc cúinhìn sông Tuyết Giang, thì th ấy ch ợHàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu; một con đường cái quan ch ạy dọ c ở giữa, biết bao bánhxe, chân n gựa, từ hàng ngàn d ặmxa tấp lập đi qua chốn này.... Ba câu tiếp theo, nói về am Bạch Vân nơi đọ c sách và dưỡng nhàn củ a ông Trạng sau khiđã thoát vòng danh lợi. Am ởbên nửa mẫu vườn, mộ t nơi thanh tĩnh m à chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơXe ngựa bụi không đến mang tínhhàm ngh ĩa sâu sắc. Tiếp theo, nhà thơ nói đến hoa, trúc, cá, chim, chuyện uống rượu, pha trà. Vừ a tả cảnhvừa tả tình. Cảnh vật đượcnhân hoá. Cá, chim như bầu bạn tri k ỷ. Một tâm hồn thanh cao, ung dung tự tại, chan hoàgiữ a thiên nhiên. Uống trá, uốngrượu, ngâm thơ... lòng càng thêm tiêu hao, khoan khoái. Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hoà, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác, trong bản d ịch đều thế:Hoa, trúc tự tay giồn gGậy, dép bén mùi hoa,Chén, cốc ánh sắc hồng.Rửa nghiên, cá nuố t mự c,Pha trà, chim lánh khóiNgâm thơ vừ a tiêu dao,Uống rượu thêm khoan khoái. Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên ...