Danh mục

Phân bón vô cơ và môi trường

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 105.52 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Phân bón là thức ăn của cây trồng, nguồn dinh dưỡng chủ yếu cho cây phát triển. Trên từng loại đất, từng loại cây trồng cũng như ở các giai đoạn sinh truởng và phát triển mà cây cần những số lượng và chất lượng khác nhau. Theo khối lượng, chất dinh dưỡng có 2 nhóm, đa lượng: nitơ, photpho, kali và vi lượng: Mg, Mn, Bo, Zn…. Theo nguồn gốc, phân bón chia thành hai loại: Phân bón hữu cơ có nguồn gốc từ động thực vật và phân vô cơ được tổng hợp từ các loại hóa...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân bón vô cơ và môi trường Phân bón vô cơ và môi trườngPhân bón là thức ăn của cây trồng, nguồn dinh dưỡng chủ yếu cho cây phát triển.Trên từng loại đất, từng loại cây trồng cũng như ở các giai đoạn sinh truởng vàphát triển mà cây cần những số lượng và chất lượng khác nhau. Theo khối lượng,chất dinh dưỡng có 2 nhóm, đa lượng: nitơ, photpho, kali và vi lượng: Mg, Mn,Bo, Zn…. Theo nguồn gốc, phân bón chia thành hai loại: Phân bón hữu cơ cónguồn gốc từ động thực vật và phân vô cơ được tổng hợp từ các loại hóa chất hoặckhoáng chất phân rã.Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, phân bón đã góp phần đáng kể làm tăngnăng suất cây trồng, chất lượng nông sản. Theo đánh giá của Viện Dinh dưỡngCây trồng Quốc tế (IPNI), phân bón đóng góp khoảng 30-35% tổng sản lượng câytrồng. Như vậy cho thấy vai trò của phân bón có ảnh hưởng đến năng suất, sảnlượng quốc gia và thu nhập của nông dân thật l à to lớn!Lượng phân bón vô cơ đã sử dụng ở Việt Nam theo Cổng thông tin điện tử của BộNông nghiệp và Phát triển Nông thôn từ năm 2000 đến 2007 của phân đạm (N),phân lân (P2O5), phân Kali (K2O) và phân hỗn hợp NPK như sau: (Đơn vị tính:nghìn tấn N, P2O5, K2O)Năm N P2O5 K2O NPK N+P2O5+K2O2000 1332,0 501,0 450,0 180,0 2283,02005 1155,1 554,1 354,4 115,9 2063,62007 1357,5 551,2 516,5 179,7 2425,2Tuy nhiên, không phải tất cả lượng phân bón trên được cho vào đất, được phuntrên lá….cây sẽ hấp thụ hết để nuôi cây lớn lên từng ngày.Theo số liệu tính toán của các chuyên gia trong lĩnh vực nông hóa học ở ViệtNam, hiện nay hiệu suất sử dụng phân đạm mới chỉ đạt từ 30-45%, lân từ 40-45%và kali từ 40-50%, tùy theo chân đất, giống cây trồng, thời vụ, phương pháp bón,loại phân bón… Như vậy, còn 60-65% lượng đạm tương đương với 1,77 triệu tấnurê, 55-60% lượng lân tương đương với 2,07 triệu tấn supe lân và 55-60% lượngkali tương đương với 344 nghìn tấn Kali Clorua (KCl) được bón vào đất nhưngchưa được cây trồng sử dụng.Lượng phân bón vô cơ chưa sử dụng hết sẽ đi về đâu?Trong số phân bón cây không sử dụng được, một phần còn được giữ lại trong cáckeo đất là nguồn dinh dưỡng dự trữ cho vụ sau; một phần bị rửa trôi theo nước mặtvà chảy vào các ao, hồ, sông suối gây ô nhiễm nguồn nước mặt; một phần bị trựcdi (thấm rút theo chiều dọc) xuống tầng nước ngầm và một phần bị bay hơi do tácđộng của nhiệt độ hay quá trình phản nitrat hóa gây ô nhiễm không khí….Như vậygây ô nhiễm môi trường của phân bón trên diện rộng và lâu dài của phân bó là việcxẩy ra hàng ngày hàng giờ của vùng sản xuất nông nghiệp.Phân bón vô cơ dư thừa đi vào môi trường có ảnh hưởng như thế nào?Phân bón đi vào nguồn nước mặt gây ảnh hưởng xấu như: Gây phì hóa nước vàtăng nồng độ nitrat trong nước.Hiện tượng tăng độ phì trong nước (còn gọi là phú dưỡng) làm cho tảo và thực vậtcấp thấp sống trong nước phát triển với tốc độ nhanh trong toàn bộ chiều sâu nhậnánh sáng mặt trời của nước. Lớp thực vật trôi nổi này làm giảm trầm trọng nănglượng ánh sáng đi tới các lớp nước phía dưới, vì vậy hiện tượng quang hợp trongcác lớp nước phía dưới bị ngăn cản, lượng oxy được giải phóng ra trong nước bịgiảm, các lớp nước này trở nên thiếu oxy. Mặt khác, khi tảo và thực vật bậc thấpbị chết, xác của chúng bị phân hủy yếm khí, tạo nên các chất độc hại, có mùi hôi,gây ô nhiễm nguồn nước.Nồng độ Nitrat trong nước cao (do phân đạm chứa Nitrat) làm ảnh hưởng đến sứckhỏe con người, đặc biệt đối với trẻ em dưới 4 tháng tuổi. Trong đường ruột, cácNitrat bị khử thành Nitrit, các Nitrit được tạo ra được hấp thụ vào máu kết hợp vớihemoglobin làm khả năng chuyên chở oxy của máu bị giảm. Nitrit còn là nguyênnhân gây ung thư tiềm tàng.Phân bón bị rửa trôi theo chiều dọc xuống tầng nước ngầm chủ yếu là phân đạm vìcác loại phân lân và kali dễ dàng được giữ lại trong keo đất. Ngoài phân đạm đivào nguồn nước ngầm còn có các loại hóa chất cải tạo đất như vôi, thạch cao, hợpchất lưu huỳnh,.. Nếu như phân đạm làm tăng nồng độ nitrat trong nước ngầm thìcác loại hóa chất cải tạo đất làm tăng độ mặn, độ cứng nguồn nước.Phân bón trong quá trình bảo quản hoặc bón vãi trên bề mặt gây ô nhiễm khôngkhí do bị nhiệt làm bay hơi khí amoniac có mùi khai, là hợp chất độc hại chongười và động vật. Mức độ gây ô nhiễm không khí trường hợp này nhỏ, hẹp khôngđáng kể so với mức độ gây ô nhiễm của các nhà máy sản xuất phân đạm nếu nhưkhông xử lý triệt để.Phân bón ảnh hưởng đến môi trường chủ yếu là do con người gây ra:- Bón dư thừa các yếu tố dinh dưỡng hoặc bón phân không đúng cáchPhân bón gây ô nhiễm môi trường là do lượng dư thừa các chất dinh dưỡng do câytrồng chưa sử dụng được hoặc do bón không đúng cách… Nguyên nhân chính làdo chưa nắm bắt đượcsố lượng , chất lượng và cách bón phân đúng cách để câycối hấp thụ.Phần lớn bà con nông dân sử dụng phân đạm (urê) là chính với số lượng lớn... màkhông cân đối với kali, lân… nên hiện tượng lúa lốp, cây dễ nhiễm sâu bệnh, dễ bịđổ ngã, mía dể đỗ ngã... Nếu sử dụng bảng so màu lá thì sẽ sớm được khắc phục.Cách bón phân hiện nay chủ yếu là bón vãi trên mặt đất, phân bón ít được vùi vàotrong đất. Xét về mặt hoá học đất, các keo đất là những keo âm (-) còn các yếu tốdinh dưỡng hầu hết là mang điện tích dương (+). Khi bón phân vào đất, được vùilấp cẩn thận thì các keo đất sẽ giữ lại các chất dinh dưỡng và nhả ra từ từ tuỳ theoyêu cầu của cây trồng theo từng thời kỳ sinh tr ưởng của cây. Như vậy, bón phâncó vùi lấp không chỉ có tác dụng hạn chế sự mất dinh dưỡng, tăng hiệu suất sửdụng phân bón mà còn làm giảm bớt ô nhiễm môi trường.Các yếu tố vi lượng như Đồng (Cu), Kẽm (Zn)… rất cần thiết cho cây trồng sinhtrưởng và phát triển và có khả năng nâng cao khả năng chống chịu cho cây trồng.Tuy nhiên khi lạm dụng các yếu tố trên lại trở thành những loại kim loại nặng khivượt quá mức sử dụng cho phé ...

Tài liệu được xem nhiều: