Phân vô cơ - phân lân Lân có vai trò quan trọng trong đời sống của cây trồng. Lân có trong thành phần của hạt nhân tế bào, rất cần cho việc hình thành các bộ phận mới của cây. Lân tham gia vào thành phần các enzim, các prôtêin, tham gia vào quá trình tổng hợp các axit amin.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân vô cơ - phân lân Lân Phân vô cơ - phân lânLân có vai trò quan trọng trong đời sống của cây trồng. Lân có trongthành phần của hạt nhân tế bào, rất cần cho việc hình thành các bộphận mới của cây. Lân tham gia vào thành phần các enzim, các prôtêin, tham giavào quá trình tổng hợp các axit amin. Lân kích thích sự phát triển của rễ cây, làm cho rễ ăn sâu vàođất và lan rộng ra chung quanh, tạo thêm điều kiện cho cây chống chịuđược hạn và ít đổ ngã. Lân kích thích quá trình đẻ nhánh, nảy chồi, thúc đẩy cây ra hoakết quả sớm và nhiều. Lân làm tăng đặc tính chống chịu của cây đối với các yếu tốkhông thuận lợi: chống rét, chống hạn, chịu độ chua của đất, chống mộtsố loại sâu bệnh hại v.v…[http://agriviet.com]Ở một số loại đất trên nước ta, lân trở thành yếu tốhạn chế đối với năng suất cây trồng. Đặc biệt ở hầu hết các loại đấttrồng lúa ở các tỉnh phía Nam. Thiếu lân không những làm cho năngsuất cây trồng giảm mà còn hạn chế hiệu quả của phân đạm. Hiệu suất của phân lân khá cao. Trên một số loại đất ở TâyNguyên bón 1 kg P2O5 cho hiệu quả thu được 4,3 – 7,5 kg cà phênhân, 8,5 kg thóc. Ở các vùng đất phèn mới khai hoang, hiệu suấtcủa phân lân càng cao hơn, 1 kg P2O5 mang lại 90 kg thóc, ở mứcbón 40 – 60 kg P2O5/ha. Bón quá nhiều phân lân trong nhiều trường hợp có thể làmcho cây bị thiếu một số nguyên tố vi lượng. Vì vậy, cần bón thêmphân vi lượng, nhất là Zn. * Phôtphat nội địa: Đó là loại bột mịn, màu nâu thẫm hoặc đôi khi có màu nâunhạt. Tỷ lệ lân nguyên chất trong phân thay đổi rất nhiều, từ 15% đến25%. Loại phân thường có trên thị trường có tỷ lệ là 15 – 18%. Trong phân phôtphat nội địa, phần lớn các hợp chất lân nằmở dạng khó tiêu đối với cây trồng. Phân có tỷ lệ vôi cao, cho nên cókhả năng khử chua. Vì lân trong phân ở dưới dạng khó tiêu, cho nên phân chỉ dùngcó hiệu quả ở các chân đất chua. Ở các chân ruộng không chua,hiệu lực của loại phân này thấp; ở loại đất này, loại phân này dùngbón cho cây phân xanh có thể phát huy được hiệu lực. Phân này chỉ nên dùng để bón lót, không dùng để bón thúc. Khi sử dụng có thể trộn với phân đạm để bón, nhưng trộn xongphải đem bón ngay, không được để lâu. Phân này dùng để ủ với phân chuồng rất tốt. Phân phôtphat nội địa ít hút ẩm, ít bị biến chất, cho nên có thểcất giữ được lâu. Vì vậy, bảo quản tương đối dễ dàng. * Phân apatit: Là loại bột mịn, màu nâu đất hoặc màu xám nâu. Tỷ lệ lân nguyên chất trong phân thay đổi nhiều. Thường ngườita chia thành 3 loại: loại apatit giàu có trên 38% lân; loại phân apatittrung bình có 17 – 38% lân; loại phân apatit nghèo có dưới 17% lân. Thường loại apatit giàu được sử dụng để chế biến thành cácloại phân lân khác, còn loại trung bình và loại nghèo mới được đemnghiền thành bột để bón cho cây. Phần lớn lân trong phân apatit ở dưới dạng cây khó sử dụng. Apatit có tỷ lệ vôi cao nên có khả năng khử chua cho đất. Phân này được sử dụng tương tự như phôtphat nội địa. Sử dụng và bảo quản phân này tương đối dễ dàng vì phân íthút ẩm và ít biến chất. * Supe lân: Là loại bột mịn màu trắng, vàng xám hoặc màu xám thiếc. Mộtsố trường hợp supe lân được sản xuất dưới dạng viên. Trong supe lân có 16 – 20% lân nguyên chất. Ngoài ra, trongphân này có chứa một lượng lớn thạch cao. Trong phân còn chứamột lượng khá lớn axit, vì vậy phân có phản ứng chua. Phân dễ hoà tan trong nước cho nên cây dễ sử dụng. Phânthường phát huy hiệu quả nhanh, ít bị rửa trôi. Supe lân có thể dùng để bón lót hoặc bón thúc đều được. Phân này có thể sử dụng để bón ở các loại đất trung tính, đấtkiềm, đất chua đều được. Tuy nhiên, ở các loại đất chua nên bón vôikhử chua trước khi bón supe lân. Supe lân có thể dùng để ủ với phân chuồng. Nếu supe lân quá chua, cần trung hoà bớt độ chua trước khi sửdụng. Có thể dùng phôtphat nội địa hoặc apatit. Nếu đất chua nhiềudùng 15 – 20% apatit để trung hoà, đất chua ít dùng 10 – 15%. Nếudùng tro bếp để trung hoà độ chua của supe lân thì dùng 10 – 15%,nếu dùng vôi thì tỷ lệ là 5 – 10%. Phân supe lân thường phát huy hiệu quả nhanh, cho nên đểtăng hiệu lực của phân, người ta thường bón tập trung, bón theo hốc,hoặc sản xuất thành dạng viên để bón cho cây. Phân này có thể dùng để hồ phân rễ mạ. Supe lân ít hút ẩm, nhưng nếu cất giữ không cẩn thận phân cóthể bị nhão và vón thành từng cục. Phân có tính axit nên dễ làmhỏng bao bì và dụng cụ đong đựng bằng sắt. * Tecmô phôtphat (phân lân nung chảy, lân Văn Điển): Phân có dạng bột màu xanh nhạt, gần như màu tro, có óngánh. Tỷ lệ lân nguyên chất trong tecmô phôtphat là 15 – 20%. Ngoàira trong phân còn có canxi 30% một ít thành phần kiềm, chủ yếu làmagiê 12 – 13%, có khi có cả kali. Tecmô phôtphat có phản ứng kiềm, cho nên không nên trộn lẫnvới phân đạm vì dễ ...