Cây gỗ thường xanh, trung bình hay lớn, cao 15-25cm, đường kính 20-40cm hay hơn. Vỏ nâu nhạt, bong thành mảng, thịt nâu hồng. Cành nhỏ, có đốt, màu xanh lá cây và làm nhiệm vụ quang hợp thay cho lá. Lá tiêu giảm thành vảy nhỏ, bao quanh các đốt của cành, dài 1-2mm. Hoa đơn tính, cùng gốc. Cụm hoa đực hình đuôi sóc, gồm rất nhiều hoa đực mọc vòng, không có bao hoa; chỉ gồm 1 nhị, lúc đầu có chỉ ngắn, sau kéo dài; bao phấn 2 ô. Cụm hoa cái đơn độc, mọc ở...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
PHI LAO
PHI LAO
Casuarina equisetifolia Forst & Forst.f., 1776
Tên khác: Xi lau, dương, dương liễu
H ọ: Phi Lao – Casuarinaceae
Hình thái
Cây gỗ thường xanh, trung bình hay
lớn, cao 15-25cm, đường kính 20-40cm
hay hơn. Vỏ nâu nhạt, bong thành mảng,
thịt nâu hồng. Cành nhỏ, có đốt, màu xanh
lá cây và làm nhiệm vụ quang hợp thay cho
lá. Lá tiêu giảm thành vảy nhỏ, bao quanh
các đốt của cành, dài 1-2mm.
Hoa đơn tính, cùng gốc. Cụm hoa đực
hình đuôi sóc, gồm rất nhiều hoa đực mọc
vòng, không có bao hoa; chỉ gồm 1 nhị, lúc
đầu có chỉ ngắn, sau kéo dài; bao phấn 2 ô.
Cụm hoa cái đơn độc, mọc ở ngọn các
cành bên; hoa cái cũng không bao hoa,
đính vào nách của 1 lá bắc. Bầu 1 ô, 2
noãn, nhưng chỉ một noãn phát triển. Quả
tập hợp trong một cụm quả (quả phức)
hình bầu dục, hoá gỗ với các lá bắc tồn tại.
Hạt 1, không có nội nhũ.
Các thông tin khác về thực vật
Hiện nay ở Việt Nam có 4 loài thuộc
chi Phi lao (Casuarina Adans) đã được
nhập nội từ châu Úc, đó là: Phi lao - Casuarina equisetifolia Forst & Forst f.
1. Cành mang quả; 2. Cụm hoa đực và cái; 3. Cành mang
Phi lao (Casuarina equisetifolia Forst). lá hình vẩy; 4. Cụm quả; 5. Hạt
Cây gỗ lớn, là một trong những cây gỗ
trồng rừng và trồng làm cây bóng mát quan trọng của Việt Nam.
Phi lao cunningham (C. cunninghamiana Miq.). Cây gỗ nhỏ trồng làm cảnh.
Phi lao junghun (C. junghunian Miq.). Cây gỗ nhỏ, trồng làm cảnh
Phi lao hoa trần (C. nudiflora Forst.). Cây gỗ nhỏ, trồng làm cảnh.
Trong 4 loài trên chỉ có loài phi lao là cây gỗ lớn, được nhập vào Việt Nam từ rất lâu đời để
trồng trên các bãi cát ven biển, còn 3 loài phi kia là cây gỗ nhỏ, mới được nhập nội, để trồng
trong làm cảnh các thành phố lớn, thời gian gần đây.
Theo Giáo sư Lâm Công Định, ở Việt Nam. phi lao có 2 chủng: Phi lao trắng và phi lao tía.
Phi lao trắng có tỉ lệ quả/hạt là 1/35. Gỗ màu trắng, dác lõi phân biệt rõ, thớ thẳng, gỗ mềm
nhẹ, không bền. Phi lao tía có tỉ lệ quả hạt 1/16, gỗ màu hồng, dác lõi phân biệt, gỗ nặng và
bền hơn phi lao trắng.
Gần đây, trong quá trình chọn giống ở loài phi lao; nhiều giống phi lao trồng có năng suất
cao, chống sâu bệnh tốt đã đã được chọn lọc để trồng làm rừng nguyên liệu cho các nhà máy
gỗ dăm. Ven biển Thanh Hoá và Hà Tĩnh đã bắt đầu trồng các giống phi lao cao sản này.
Vấn đề nghiên cứu tính đa dạng trong loài phi lao cần được tiến hành, nhằm phục vụ cho
công tác chọn giống và trồng rừng sau này.
Phân bố
Cây có nguồn gốc châu Úc, hiện nay đã được trồng ở
hầu hết các nước Đông Nam Á, các nước châu Á và châu
Phi nhiệt đới.
Người Pháp đã đem cây Phi lao vào trồng ở Việt Nam từ
năm 1896. Hiện nay phi lao đã trở thành một trong những
loài cây gỗ quen thuộc của Việt Nam. Hầu hết các tỉnh ven
biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang đều trồng phi lao trên
các bãi cát ven biển. Nhiều tỉnh miền Bắc Việt Nam trồng phi
lao làm cây chắn gió, cây ven đường lấy bóng mát, hay trong
công viên làm cây cảnh.
Đặc điểm sinh học
Phi lao có phạm vi thích ứng về mặt khí hậu tương đối
rộng, từ khu vực xích đạo mưa nhiều, lượng mưa trung bình
năm trên 2.000mm và không có mùa khô, đến khu vực khí
hậu gió mùa có lượng mưa thấp 700-800mm và mùa khô kéo
dài 6-7 tháng. Nhưng ở các khu vực này, phi lao thường
sống trên các bãi cát ven biển. Thích hợp các loại đất cát pha Phân bố của phi lao ở Việt Nam
nhẹ, tốt, sâu, ẩm, thoát nước, độ pH 6,5-7,0.
Cây sinh trưởng nhanh, cành lá xum xuê, hệ rễ phát triển, rễ cọc ăn sâu đến 2m, rễ ngang
lan rộng và có vi khuẩn cố định đạm Frankia; có thể chịu được gió bão cấp 10, chịu được cát
vùi lấp, trốc rễ. Thân cây chịu được cát va đập, nếu cây bị cát vùi lấp, nó có thể ra lớp rễ phụ
mới ở ngang mặt đất vì vậy ở Việt Nam, tới nay phi lao vẫn là cây gỗ số một được trồng trên
vùng cát cố định và cát bay ven biển. Sau khi trồng 1 năm, cây có thể đạt chiều cao 2-3m,
đường kính 3cm; cây 4 tuổi cao 11-12m, đường kính 12-15cm; cây 10 tuổi cao 18-20m, đường
kính trên 20cm. Thông thường trên 25 tuổi, cây ngừng sinh trưởng chiều cao, đến 30-50 tuổi
cây trở nên già cỗi.
Phi lao sinh trưởng quanh năm, nhưng vào mùa mưa, cây sinh trưởng nhanh hơn. Ở giai
đoạn tuổi nhỏ cây chịu khô và chịu rét kém; vượt qua giai đoạn này cây sinh trưởng tốt hơn.
Cây tái sinh chồi rất tốt. Trên thân cây có nhiều rễ bất định, do đó thân cây bị vùi lấp tới
đâu, cây vẫn ra rễ được ở nơi đó và sinh trưởng bình thường.
Cây sinh trưởng tốt nhất trên đất cát mới bồi tụ ven biển và đồng bằng; cũng có thể sống
được trên đất cát nghèo, đất dốc tụ có tầng dày, thành phần cơ giới nhẹ, độ pH 5,5. Nhưng trên
đất quá khô xấu, đất đồi tầng mỏng, lẫn nhiều đá, đất có thành phần cơ giới nặng, bí chặt, độ
pH 4-4,5, cây sinh trưởng rất kém; lá vàng đỏ, thường biến dạng thành cây bụi, thấp, thân nhỏ,
cành loà xoà trên mặt đất hoặc bị chết dần.
Công dụng
Vỏ phi lao chứa tanin, thường đạt khoảng 11-18% trọng lượng vỏ. Tanin thường được
dùng để thuộc da, nhuộm lưới đánh cá. Trong 100g cành phi lao ở Puerto Rico chứa: 1,56g
N,0,16g P, 0,48g K,1,23g Ca,0,23g Mg và 3,28g Na.
Gỗ cứng, nặng, màu nâu nhạt và mềm với các vòng năm rõ. Tỉ trọng 0,978. Dễ bị mối mọt.
Thường dùng trong xây dựng, trụ mỏ, đóng đồ gỗ, làm cột điện, và làm củi. Đây là loại củi tốt
nhất trong các loài cây, ngay cả khi tươi củi cũng cháy tốt. Nhiệt lượng của gỗ là 24.000kJ/kg
và nhiệt lượng của than từ gỗ phi lao là trên 33.500kJ/kg. Cành, lá phi lao rụng dưới rừng là
nguồn củi đun chủ yếu cho nhân dân ở nhiều vùng ven biển. Nhược điểm của gỗ phi lao là có
nhiều mắt, sức chịu uốn kém (dòn), dễ bị mối mọt, mục nát.
Lá cây nhiều cellulose nên dùng làm bột giấy thô và là nguồn thức ăn tốt cho trâu bò.
Đây cũng là loại cây trồng chắn gió cho đồng ruộng rất phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ
...