Phong Tục – An nam chỉ lược
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 114.86 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nước An-nam xưa là đất Giao-Chỉ. Đời nhà Đường, nhà Ngu và đời TamĐại, sự giáo-hoá của Trung-Quốc đã nhuần-thấm đến. Đến hai đời nhà Hán đặt làm quận huyện. Đàn ông lo làm ruộng, đi buôn, đàn bà lo nuôi tằm, dệt vải, cách nói phô hiền hoà, ít lòng ham muốn. Người ở xứ xa trôi nổi tới nước họ, họ hay hỏi thăm, ấy là tình thường của họ. Người sinh ra ở GiaoChâu và Ái-Châu thì rộng-rãi, có mưu-trí; người ở Châu-Hoan, Châu-Diễn thì thuần tú, ham học. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phong Tục – An nam chỉ lược Phong Tục – An nam chỉ lượcNước An-nam xưa là đất Giao-Chỉ. Đời nhà Đường, nhà Ngu và đời Tam-Đại, sự giáo-hoá của Trung-Quốc đã nhuần-thấm đến. Đến hai đời nhà Hánđặt làm quận huyện. Đàn ông lo làm ruộng, đi buôn, đàn bà lo nuôi tằm, dệtvải, cách nói phô hiền hoà, ít lòng ham muốn. Người ở xứ xa trôi nổi tớinước họ, họ hay hỏi thăm, ấy là tình thường của họ. Người sinh ra ở Giao-Châu và Ái-Châu thì rộng-rãi, có mưu-trí; người ở Châu-Hoan, Châu-Diễnthì thuần tú, ham học. Dư nữa, thì khờ dại thiệt thà. Dân hay vẽ mình, bắtchước tục lệ của 2 nước Ngô, Việt. Vì thế, Liễu-Tư-Hậu có câu thơ rằng:Cộng lai Bách-Việt văn-thân địa, nghĩa là cùng đi tới đất Bách-Việt là xứngười vẽ mình. Vì trời nóng sốt, dân ưa tắm ở sông, nên họ chèo đò và lộinước rất giỏi; ngày thường không đội mũ, đứng thì vòng hai tay, ngồi thì xếpbằng hai chân. Yết kiến bậc tôn trưởng thì quì xuống lạy ba lạy. Tiếp kháchthì đãi trầu cau. Tính ưa ăn dưa, mắm và những vật dưới biển. Hay uốngrượu, thường uống quá độ, nên người gầy yếu. Người già đến năm mươi tuổithì khỏi đi sưu dịch. Thường năm, trước lễ Tết hai ngày, vua đi xe ngự-dụng,các quan tuỳ tùng đều mặc triều-phục hầu đạo tiền, tế điện Đế-Thích. Ngày30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan-Củng, các bề tôi đều làm lễ, lễ rồi, xem cáccon hát múa trăm lối. Tối lại qua cung Động-Nhân, bái yết Tiên-Vương.Đêm ấy đoàn thầy tu vào nội làm lễ Khu-Na (nghĩa là đuổi tà ma quỉ mị).Dân-gian thì mở cửa đốt pháo tre, cổ bàn trà rượu cúng tổ. Con trai con gáinhà nghèo, không có người mai dong để làm hôn-lễ, thì tự mình phối hợpvới nhau. Ngày Nguyên-Đán, vào khoảng canh năm, vua ngồi trên điệnVĩnh-Thọ, các tôn-tử (con cháu nhà vua), các quan cận-thần làm lễ hạ trước,rồi vào cung Trường-Xuân, vọng bái các lăng tổ. Buổi sáng sớm, vua ngồitrên điện Thiên-An, các phi tần sắp lớp ngồi, các quan trong nội đứng lộnxộn trước điện đánh thổi các bài ca-nhạc trước đại-đình. Con cháu nhà vuavà bề tôi sắp hàng bái hạ, ba lần rót rượu dâng lên. Xong, các tôn-tử lên điệnchầu và dự yến. Các quan nội-thần ngồi tiểu điện phía tây, các quan ngoạithần ngồi hai bên tả hữu vua, ăn tiệc, đến trưa lần lượt đi ra. Các thợ khéolàm một cái đài Chúng-tiên hai tầng ở trước điện, một lúc thì cái đài ấylàm xong, vàng ngọc sáng chói. Vua ngồi ăn trên đài ấy, các quan làm lễ,trước sau chín lạy, và chín tuần rượu rồi giải-tán. Ngày mồng hai Tết, cácquan đều làm lễ riêng ở nhà. Ngày mồng ba Tết, vua ngồi trên gác Đại-Hưng, xem các tôn-tử và các quan nội-cung đánh quả bóng (quả cầu thêu),hễ bắt được mà không rơi xuống đất là thắng. Quả bóng lấy gấm mà làm,bằng nắm tay đứa bé, có tua đeo lòng thòng đến hai mươi sợi 6 .Mùng năm Tết, lễ khai-hạ, ăn yến xong thì để quan và dân lễ các chùa miếuvà du-ngoạn các vườn hoa.Đêm nguyên-tiêu (rằm tháng giêng), trồng những cây đèn ở giữa sân rộnggọi là đèn Quảng-Chiếu, thắp đến mấy vạn ngọn, sáng rực cả trên trời dướiđất, thầy tu đi quanh tụng kinh Phật, các quan-liêu lễ bái, gọi là chầu đèn.Tháng hai làm một cái nhà, gọi là Xuân-Đài, các con hát hóa trang làmmười hai vị thần, múa hát trên đài. Vua coi các trò tranh đua trước sân, vàcoi các lực-sĩ và trẻ con đấu nhau, ai thắng thì được thưởng. Các công-hầuthì cỡi ngựa mà đánh trái cầu, quan nhỏ thì đánh cờ, đánh vu-bồ (bài thẻ), đábóng và thi đua các trò chơi khác.Ngày hàn-thực thì dùng bánh cuốn tặng cho nhau. Ngày mồng Bốn tháng tư,các tôn-tử và các quan cận-thần hội tại miếu Sơn-thần, tuyên-thệ thành vớivua, không có chí gì khác. Mồng tám tháng tư, mài trầm hương và bạch-đàn-hương, dầm nước tắm rửa tượng Phật và dùng thứ bánh giầy mà cúng Phật.Tiết Đoan-Dương, (mồng năm tháng năm), làm cái nhà gác ở giữa sông, vuangồi coi đua thuyền.Ngày Trung-Nguyên, lập hội Vu-Lan-Bồn, để cúng tế, siêu-độ cho ngườichết, tốn hao bao nhiêu cũng không tiếc. Trung-Thu, và Trùng-Cửu là nhữngngày mà các nhà quý-tộc uống rượu, ngâm thơ đạo xem phong cảnh. Ngàymồng một tháng mười (lương nguyệt), có trưng bày hào-soạn để cúng ôngbà, gọi là cúng tiến tân (cơm mới), cho các quan liêu đi xem gặt lúa, sănbắn cho vui. Đến tháng chạp lại cúng ông bà như trên. Theo gia-lễ, ngày lậpxuân đi du xuân, khiến các tôn trưởng giắc trâu đất, xong rồi, các quan lạigiắt hoa vào đầu để vào đại-nội dự tiệc. Lễ hôn thú: trong tháng xuân, ngườilàm mối bưng trắp cau trầu đến nhà gái hỏi. Xong, tặng lễ-vật đáng giá từtrăm đến ngàn. Thường dân thì lễ cưới tới giá trăm là đủ số. Có nhà ưachuộng lễ-nghĩa thì không kể số tiền của ít nhiều. Cách để tang, nhà cửa, đồdùng, hơi giống như Trung-Quốc.Nhạc-Khí: có thứ trống phạn-sĩ (trống cơm), nguyên nhạc-khí của Chiêm-thành, kiểu tròn và dài, nghiền cơm, bịt hai đầu, cứ giữa mặt mà vỗ thì kêutiếng trong mà rõ ràng, hợp với ống kèn, tháp nứa, cái xập xõa, cái trống lớn,gọi là đại-nhạc, chỉ vua mới được dùng; các tôn thất, quí quan có gặp lễ đámchay đám ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phong Tục – An nam chỉ lược Phong Tục – An nam chỉ lượcNước An-nam xưa là đất Giao-Chỉ. Đời nhà Đường, nhà Ngu và đời Tam-Đại, sự giáo-hoá của Trung-Quốc đã nhuần-thấm đến. Đến hai đời nhà Hánđặt làm quận huyện. Đàn ông lo làm ruộng, đi buôn, đàn bà lo nuôi tằm, dệtvải, cách nói phô hiền hoà, ít lòng ham muốn. Người ở xứ xa trôi nổi tớinước họ, họ hay hỏi thăm, ấy là tình thường của họ. Người sinh ra ở Giao-Châu và Ái-Châu thì rộng-rãi, có mưu-trí; người ở Châu-Hoan, Châu-Diễnthì thuần tú, ham học. Dư nữa, thì khờ dại thiệt thà. Dân hay vẽ mình, bắtchước tục lệ của 2 nước Ngô, Việt. Vì thế, Liễu-Tư-Hậu có câu thơ rằng:Cộng lai Bách-Việt văn-thân địa, nghĩa là cùng đi tới đất Bách-Việt là xứngười vẽ mình. Vì trời nóng sốt, dân ưa tắm ở sông, nên họ chèo đò và lộinước rất giỏi; ngày thường không đội mũ, đứng thì vòng hai tay, ngồi thì xếpbằng hai chân. Yết kiến bậc tôn trưởng thì quì xuống lạy ba lạy. Tiếp kháchthì đãi trầu cau. Tính ưa ăn dưa, mắm và những vật dưới biển. Hay uốngrượu, thường uống quá độ, nên người gầy yếu. Người già đến năm mươi tuổithì khỏi đi sưu dịch. Thường năm, trước lễ Tết hai ngày, vua đi xe ngự-dụng,các quan tuỳ tùng đều mặc triều-phục hầu đạo tiền, tế điện Đế-Thích. Ngày30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan-Củng, các bề tôi đều làm lễ, lễ rồi, xem cáccon hát múa trăm lối. Tối lại qua cung Động-Nhân, bái yết Tiên-Vương.Đêm ấy đoàn thầy tu vào nội làm lễ Khu-Na (nghĩa là đuổi tà ma quỉ mị).Dân-gian thì mở cửa đốt pháo tre, cổ bàn trà rượu cúng tổ. Con trai con gáinhà nghèo, không có người mai dong để làm hôn-lễ, thì tự mình phối hợpvới nhau. Ngày Nguyên-Đán, vào khoảng canh năm, vua ngồi trên điệnVĩnh-Thọ, các tôn-tử (con cháu nhà vua), các quan cận-thần làm lễ hạ trước,rồi vào cung Trường-Xuân, vọng bái các lăng tổ. Buổi sáng sớm, vua ngồitrên điện Thiên-An, các phi tần sắp lớp ngồi, các quan trong nội đứng lộnxộn trước điện đánh thổi các bài ca-nhạc trước đại-đình. Con cháu nhà vuavà bề tôi sắp hàng bái hạ, ba lần rót rượu dâng lên. Xong, các tôn-tử lên điệnchầu và dự yến. Các quan nội-thần ngồi tiểu điện phía tây, các quan ngoạithần ngồi hai bên tả hữu vua, ăn tiệc, đến trưa lần lượt đi ra. Các thợ khéolàm một cái đài Chúng-tiên hai tầng ở trước điện, một lúc thì cái đài ấylàm xong, vàng ngọc sáng chói. Vua ngồi ăn trên đài ấy, các quan làm lễ,trước sau chín lạy, và chín tuần rượu rồi giải-tán. Ngày mồng hai Tết, cácquan đều làm lễ riêng ở nhà. Ngày mồng ba Tết, vua ngồi trên gác Đại-Hưng, xem các tôn-tử và các quan nội-cung đánh quả bóng (quả cầu thêu),hễ bắt được mà không rơi xuống đất là thắng. Quả bóng lấy gấm mà làm,bằng nắm tay đứa bé, có tua đeo lòng thòng đến hai mươi sợi 6 .Mùng năm Tết, lễ khai-hạ, ăn yến xong thì để quan và dân lễ các chùa miếuvà du-ngoạn các vườn hoa.Đêm nguyên-tiêu (rằm tháng giêng), trồng những cây đèn ở giữa sân rộnggọi là đèn Quảng-Chiếu, thắp đến mấy vạn ngọn, sáng rực cả trên trời dướiđất, thầy tu đi quanh tụng kinh Phật, các quan-liêu lễ bái, gọi là chầu đèn.Tháng hai làm một cái nhà, gọi là Xuân-Đài, các con hát hóa trang làmmười hai vị thần, múa hát trên đài. Vua coi các trò tranh đua trước sân, vàcoi các lực-sĩ và trẻ con đấu nhau, ai thắng thì được thưởng. Các công-hầuthì cỡi ngựa mà đánh trái cầu, quan nhỏ thì đánh cờ, đánh vu-bồ (bài thẻ), đábóng và thi đua các trò chơi khác.Ngày hàn-thực thì dùng bánh cuốn tặng cho nhau. Ngày mồng Bốn tháng tư,các tôn-tử và các quan cận-thần hội tại miếu Sơn-thần, tuyên-thệ thành vớivua, không có chí gì khác. Mồng tám tháng tư, mài trầm hương và bạch-đàn-hương, dầm nước tắm rửa tượng Phật và dùng thứ bánh giầy mà cúng Phật.Tiết Đoan-Dương, (mồng năm tháng năm), làm cái nhà gác ở giữa sông, vuangồi coi đua thuyền.Ngày Trung-Nguyên, lập hội Vu-Lan-Bồn, để cúng tế, siêu-độ cho ngườichết, tốn hao bao nhiêu cũng không tiếc. Trung-Thu, và Trùng-Cửu là nhữngngày mà các nhà quý-tộc uống rượu, ngâm thơ đạo xem phong cảnh. Ngàymồng một tháng mười (lương nguyệt), có trưng bày hào-soạn để cúng ôngbà, gọi là cúng tiến tân (cơm mới), cho các quan liêu đi xem gặt lúa, sănbắn cho vui. Đến tháng chạp lại cúng ông bà như trên. Theo gia-lễ, ngày lậpxuân đi du xuân, khiến các tôn trưởng giắc trâu đất, xong rồi, các quan lạigiắt hoa vào đầu để vào đại-nội dự tiệc. Lễ hôn thú: trong tháng xuân, ngườilàm mối bưng trắp cau trầu đến nhà gái hỏi. Xong, tặng lễ-vật đáng giá từtrăm đến ngàn. Thường dân thì lễ cưới tới giá trăm là đủ số. Có nhà ưachuộng lễ-nghĩa thì không kể số tiền của ít nhiều. Cách để tang, nhà cửa, đồdùng, hơi giống như Trung-Quốc.Nhạc-Khí: có thứ trống phạn-sĩ (trống cơm), nguyên nhạc-khí của Chiêm-thành, kiểu tròn và dài, nghiền cơm, bịt hai đầu, cứ giữa mặt mà vỗ thì kêutiếng trong mà rõ ràng, hợp với ống kèn, tháp nứa, cái xập xõa, cái trống lớn,gọi là đại-nhạc, chỉ vua mới được dùng; các tôn thất, quí quan có gặp lễ đámchay đám ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lịch sử việt nam lịch sử thế giới tài liệu lịch sử nghiên cứu lịch sử chuyên ngành lịch sửGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 145 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 95 1 0 -
69 trang 73 0 0
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ (Tiếp theo)
19 trang 61 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 57 0 0 -
11 trang 48 0 0
-
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 45 0 0 -
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 44 0 0 -
26 trang 42 0 0