Lách to là một triệu chứng gặp trong nhiều bệnh, nhưng thường nhất là các bệnh về máu và những bệnh của hệ thống tĩnh mạch cửa, các bệnh của gan. Vì là một dấu hiệu thực thể rất có giá trị trong các loại bệnh kể trên, nên khi thăm khám lâm sàng cần hết sức chú ý phát hiện lách to.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN LÁCH TO CHẨN ĐOÁN LÁCH TOLách to là một triệu chứng gặp trong nhiều bệnh, nhưng thường nhất là các bệnhvề máu và những bệnh của hệ thống tĩnh mạch cửa, các bệnh của gan. V ì là mộtdấu hiệu thực thể rất có giá trị trong các loại bệnh kể trên, nên khi thăm khám lâmsàng cần hết sức chú ý phát hiện lách to.I. CHẨN ĐOÁN1. Chẩn đoán xác định.1.1. Bình thường:Lách nằm lẩn trong lồng ngực, không sờ thấy đuợc, trừ các trẻ nhỏ, thành bụngnhẽo. Chỉ gõ được vùng đục của lách ở đường nách sau, cao độ 2-3cm trongkhoảng từ D9 – D10 và D11.1.2. Kỹ thuật khám lách.- Nhìn: khi lách to nhiều có thể thấy một vòm nổi lên dưới bờ sườn trái. Trườnghợp này ít thấy và không được chính xác.- Sờ nắn: để xác định của lách ở phía dưới bờ sườn. Người bệnh nằm ngửa hoặchơi nghiêng về bên phải, tay trái giơ cao lên đầu. Thầy thuốc ngồi bên phải ngườibệnh. Dùng tay phải đặt nằm lên hạ sườn trái người bệnh ở giữa đường nách trướcvà đường thẳng dọc kẻ qua giữa xương đòn, vì lách di động theo nhịp thở, nênngười bệnh hít vào thật sâu, lách sẽ đụng vào các ngón tay ta.Cũng có thể ngồi bên trái người bệnh. Khi đó người bệnh nằm nghiêng hẳn về bênphải. Dùng các đầu ngón tay làm móc móc nhẹ về bờ dưới xương sườn vùng lách.Người bệnh hít vào thật sâu, có thể thấy được cực dưới của lách.Trường hợp lách to nhiều xuống phía dưới thì dung hai bàn tay: một phía trệnbụng,một phía dưới lưng để giới hạn vị trí của lách và nhận thấy rõ chỗ eo vàocủa lách. Đồng thời với cách khám này ta sẽ không thấy dấu hiệu bập bềnh thậnhoặc dấu hiệu chạm thắt lưng.- Gõ: để biết vùng đục của lách ở phía trong lồng ngực, cần gõ mạnh từ trênxuống dưới theo đường nách. Ranh giới giữa vùng trong của phổi với vùng đụccủa lách cho biết cực trên của lách. Trường hợp lách to có thể chấn đoán một phầnvùng Traube của dạ dày, lúc đó gõ vùng này cũng thấy đục.Lách to thường theo hai chiều: chiều thẳng đứng đi xuống hố chậu và đường nằmngang đi ra giữa bụng. Tuy nhiên có thể chỉ to theo đường thẳng đứng (láchđứng) hoặc chĩ to theo đừong nằm ngang (lách nằm) không có giá trị về phươngdiện chẩn đoán xác định lách to cũng như chẩn đoán nguyên nhân bệnh. Có khingười ta chia lách to theo số:Lách số 1: quá bờ sườn 2cm.Lách số 2: quá bờ sườn 4cm.Lách số 3: đến rốn.Lách số 4: quá rốn.1.3. Nghiệm pháp có lách.Lách có thể thay đổi thể tích do co lại vì nhiều nguyên nhân khác nhau như khigắng sức, cảm động, ngạt thở, chảy máu nhiều… ta có thể xác định mức độ co lạicủa lách bằng cách tiêm phòng 1mg adrenalin vào dưới da, sau đó theo dõi:- 15 phút sau khi tiêm, thể tích lách co lại.- Số lượng hồng cầu máu ngoại biên từng 5 phút một. Thường số lượng hồng cầutăng nhiều nhất sau 10 phút, số lượng tiểu cầu tăng cũng nhanh. Số lượng bạchcầu tăng chậm hơn.- Nghiệm pháp co lách, ngoài tác dụng chẩn đoán xác định còn giúp cho biết tìnhtrạng xơ hoá của lách.1.4. Chọc dò lách:Rất ít khi áp dụng vì tai biến chảy máu. Có thể hạn chế đ ược một phần tai biến,nếu người bệnh nằm bất động tuyệt đối trên giường 24 giờ sau khi tiến hành phẫuthuật. Phương pháp này có chỉ định khi bằng các phương tiện khác mà chưa tìmđược nguyên nhân lách to.chống chỉ định tuyệt đối chọc lách khi thể trạng dễ chảy máu, nhiễm khuẩn, láchto đau, người bệnh dễ xúc động.Cuối cùng sau khi đã xác định được lách to, cần theo dõi tiến trểin hằng ngày thểtích của nó bằng vẽ trên da bụng hoặc vẽ trên giấy.Xquang ít giúp cho chẩn đoán xác định lách to. Thường chỉ dùng để chẩn đoánphân biệt với các khối u khác ở hạ sườn trái.2. Chẩn đoán phân biệt.Trường hợp lách to trung bình, thường dễ chẩn đoán bằng phương pháp kể trên.Khi lách to ít, hoặc ngược lại lách quá to, choán hết hố chậu trái, có khi cả hố chậuphải. Lúc đó cần chẩn đoán phân biệt với:2.1. Thận trái to:- Khối u của thận tròn hơn, ở sâu hơn, bờ trong của thận không có chỗ lõm vào.- Có thể thấy dấu hiệu bập bềnh thận hoặc chạm thắt lưng.- Gõ phía trước thường trong vì có đại tràng đi ngang qua, khác với lách to, nằmphía trong đại tràng ngang.Trường hợp khó phân biệt, cần chụp thận với thuốc cản quang để biết rõ hìnhdáng, kích thước thận và bể thận. Dù sao nhiều trường hợp vẫn có thể nhầm.2.2. Khối u đại tràng ngang góc lách.- Khối u tròn, nắn thấy giới hạn, di động dễ hơn.- Có những rối loạn tiêu hoá, đặc biệt là hội chứng Koenig.Muốn phân biệt chắc chắn thì dùng Xquang: bơm thuốc cản quang vào đường hậumôn (lavemantharyté), nếu khối u của đại tràng thấy rõ hình khuýêt.2.3. Khối u dạ dày.- Ở sâu.- Có rối loạn về tiêu hoá.Dùng xquang phân định: chụp dạ dày có thuốc cản quang thấy hình khuyết của dạdày hoặc chụp dạ dày sau khi uống nước sinh hơi, bờ cong lớn của dạ dày bị đẩyvào trong bởi bờ rang cưa của lách. Phương pháp sau này rất có giá trị nếu khilách to phát triển dưới cơ hoành rất khó sờ nắn.2.4. Thùy trái gan ...