Quản lí hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm định chất lượng giáo dục tại trường Đại học An Giang
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 3.33 MB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết đã khái quát tình hình kiểm định chất lượng, hiện trạng quản lí ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm định chất lượng giáo dục, từ đó đề xuất các giải pháp quản lí hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm định chất lượng giáo dục đại học tại Trường Đại học An Giang.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quản lí hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm định chất lượng giáo dục tại trường Đại học An GiangVJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 136-139; 60 QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TINTRONG KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG Hồ Nhã Phong - Trường Đại học An Giang Ngày nhận bài: 22/6/2019; ngày chỉnh sửa: 09/7/2019; ngày duyệt đăng: 18/7/2019. Abstract: Educational quality accreditation in higher education is an important mission of the universities. This activity helps the institutions in assuring and improving the quality of training in a sustainable manner. Based on the approach of general views and management practices, in this article, we identify the need for managing the application of information technology in higher education quality accreditation. At the same time, we give an overview of the situation of quality accreditation, the current status of management of information technology application in the educational accreditation at An Giang University. Since then, we propose a number of solutions to manage the application of information technology in education quality accreditation at An Giang University. Keywords: Accreditation, educational quality, management, information technology application.1. Mở đầu Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn Công tác kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD) diện GD-ĐT đã đưa ra các nhiệm vụ và giải pháp chođã được thực hiện tại Trường Đại học An Giang ngay từ công tác KĐCLGD: “Hoàn thiện hệ thống KĐCLGD.khi Bộ GD-ĐT có chủ trương triển khai công tác này. Định kì kiểm định chất lượng các cơ sở GD-ĐT và cácQuá trình triển khai cho thấy, công tác KĐCLGD đã tạo chương trình đào tạo; công khai kết quả kiểm định. Chúra sự chuyển biến rõ nét trong công tác quản lí đào tạo trọng kiểm tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng GD-ĐTcủa Nhà trường, thông qua đó góp phần đảm bảo và nâng đối với các cơ sở ngoài công lập, các cơ sở có yếu tốchất lượng đào tạo. Lãnh đạo Nhà trường cũng đã nhận nước ngoài. Xây dựng phương thức kiểm tra, đánh giáthức vai trò của công nghệ thông tin (CNTT) nên đã rất phù hợp với các loại hình giáo dục cộng đồng” vàchú trọng đến việc đưa CNTT ứng dụng vào công tác “Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quảnKĐCLGD và bước đầu đã mang lại một số kết quả rất lí quá trình đào tạo; chú trọng quản lí chất lượng đầuđáng khích lệ. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa vai trò của ra. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượngCNTT vào công tác KĐCLGD, lãnh đạo Nhà trường cần GD-ĐT” [2].chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng các biện pháp quản Sau khi nội dung về KĐCLGD được đưa vào Luậtlí hoạt động ứng dụng CNTT trong công tác này. Giáo dục 2005 cùng với các chủ trương, định hướng của2. Nội dung nghiên cứu Đảng và Nhà nước, Bộ GD-ĐT đã triển khai nhiều giải2.1. Sự cần thiết của quản lí hoạt động ứng dụng công pháp đẩy mạnh công tác này ở tất cả cấp học trong phạmnghệ thông tin trong kiểm định chất lượng giáo dục vi cả nước. Quá trình triển khai đã cho thấy sự cần thiết2.1.1. Sự cần thiết của hoạt động kiểm định chất lượng và vai trò hết sức quan trọng của công tác KĐCLGDgiáo dục trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục ở KĐCLGD đã được hình thành và phát triển từ lâu ở các cơ sở giáo dục.Bắc Mĩ. Đây được xem là một trong những công cụ hiệu Đến năm 2018, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều củaquả giúp các cơ sở giáo dục kiểm soát và đảm bảo chất Luật Giáo dục đại học đã được ban hành và có hiệu lựclượng đào tạo, thông qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh từ ngày 01/7/2019. Cùng với chủ trương giao quyền tựcủa mình. chủ và trách nhiệm giải trình cho cơ sở giáo dục đại học Tại Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm “kiểm định chất thì KĐCLGD đã trở thành một điều kiện để cơ sở giáolượng” được đưa vào Luật Giáo dục 2005: “KĐCLGD dục đại học thực hiện quyền tự chủ của mình. Bên cạnhlà biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dụcmục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục đối với nhà đại học năm 2018 cũng quy định việc công nhận chuẩntrường và cơ sở giáo dục khác. Việc KĐCLGD được thực KĐCLGD là một điều kiện để các cơ sở giáo dục đại họchiện định kì trong ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quản lí hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm định chất lượng giáo dục tại trường Đại học An GiangVJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 136-139; 60 QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TINTRONG KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG Hồ Nhã Phong - Trường Đại học An Giang Ngày nhận bài: 22/6/2019; ngày chỉnh sửa: 09/7/2019; ngày duyệt đăng: 18/7/2019. Abstract: Educational quality accreditation in higher education is an important mission of the universities. This activity helps the institutions in assuring and improving the quality of training in a sustainable manner. Based on the approach of general views and management practices, in this article, we identify the need for managing the application of information technology in higher education quality accreditation. At the same time, we give an overview of the situation of quality accreditation, the current status of management of information technology application in the educational accreditation at An Giang University. Since then, we propose a number of solutions to manage the application of information technology in education quality accreditation at An Giang University. Keywords: Accreditation, educational quality, management, information technology application.1. Mở đầu Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn Công tác kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD) diện GD-ĐT đã đưa ra các nhiệm vụ và giải pháp chođã được thực hiện tại Trường Đại học An Giang ngay từ công tác KĐCLGD: “Hoàn thiện hệ thống KĐCLGD.khi Bộ GD-ĐT có chủ trương triển khai công tác này. Định kì kiểm định chất lượng các cơ sở GD-ĐT và cácQuá trình triển khai cho thấy, công tác KĐCLGD đã tạo chương trình đào tạo; công khai kết quả kiểm định. Chúra sự chuyển biến rõ nét trong công tác quản lí đào tạo trọng kiểm tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng GD-ĐTcủa Nhà trường, thông qua đó góp phần đảm bảo và nâng đối với các cơ sở ngoài công lập, các cơ sở có yếu tốchất lượng đào tạo. Lãnh đạo Nhà trường cũng đã nhận nước ngoài. Xây dựng phương thức kiểm tra, đánh giáthức vai trò của công nghệ thông tin (CNTT) nên đã rất phù hợp với các loại hình giáo dục cộng đồng” vàchú trọng đến việc đưa CNTT ứng dụng vào công tác “Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quảnKĐCLGD và bước đầu đã mang lại một số kết quả rất lí quá trình đào tạo; chú trọng quản lí chất lượng đầuđáng khích lệ. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa vai trò của ra. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượngCNTT vào công tác KĐCLGD, lãnh đạo Nhà trường cần GD-ĐT” [2].chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng các biện pháp quản Sau khi nội dung về KĐCLGD được đưa vào Luậtlí hoạt động ứng dụng CNTT trong công tác này. Giáo dục 2005 cùng với các chủ trương, định hướng của2. Nội dung nghiên cứu Đảng và Nhà nước, Bộ GD-ĐT đã triển khai nhiều giải2.1. Sự cần thiết của quản lí hoạt động ứng dụng công pháp đẩy mạnh công tác này ở tất cả cấp học trong phạmnghệ thông tin trong kiểm định chất lượng giáo dục vi cả nước. Quá trình triển khai đã cho thấy sự cần thiết2.1.1. Sự cần thiết của hoạt động kiểm định chất lượng và vai trò hết sức quan trọng của công tác KĐCLGDgiáo dục trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục ở KĐCLGD đã được hình thành và phát triển từ lâu ở các cơ sở giáo dục.Bắc Mĩ. Đây được xem là một trong những công cụ hiệu Đến năm 2018, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều củaquả giúp các cơ sở giáo dục kiểm soát và đảm bảo chất Luật Giáo dục đại học đã được ban hành và có hiệu lựclượng đào tạo, thông qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh từ ngày 01/7/2019. Cùng với chủ trương giao quyền tựcủa mình. chủ và trách nhiệm giải trình cho cơ sở giáo dục đại học Tại Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm “kiểm định chất thì KĐCLGD đã trở thành một điều kiện để cơ sở giáolượng” được đưa vào Luật Giáo dục 2005: “KĐCLGD dục đại học thực hiện quyền tự chủ của mình. Bên cạnhlà biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dụcmục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục đối với nhà đại học năm 2018 cũng quy định việc công nhận chuẩntrường và cơ sở giáo dục khác. Việc KĐCLGD được thực KĐCLGD là một điều kiện để các cơ sở giáo dục đại họchiện định kì trong ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí Giáo dục Chất lượng giáo dục Ứng dụng công nghệ thông tin Công tác kiểm định chất lượng giáo dục Đổi mới giáo dụcTài liệu liên quan:
-
176 trang 280 3 0
-
7 trang 278 0 0
-
Đặc điểm sử dụng từ xưng hô trong tiếng Nhật và so sánh với đơn vị tương đương trong tiếng Việt
5 trang 240 4 0 -
5 trang 234 0 0
-
177 trang 231 0 0
-
122 trang 217 0 0
-
5 trang 214 0 0
-
Thực trạng dạy và học môn tiếng Anh chuyên ngành Kinh tế tại trường Đại học Sài Gòn
5 trang 199 0 0 -
7 trang 174 0 0
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực chuyển đổi số của giáo viên tiểu học tại tỉnh An Giang
6 trang 172 0 0