Tham khảo tài liệu 'quế quan', nông - lâm - ngư, lâm nghiệp phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
QUẾ QUAN
QUẾ QUAN
Cinnamomum verum J. S. Presl., 1825
Tên đồng nghĩa: Laurus cinnamomum L., 1753; Cinnamomum zeylanicum Blume, 1826
Tên khác: Quế xây lan, quế hồi, quế rành, quế ống, quế khâu, quế tích lan.
H ọ: Long não – Lauraceae
Tên thương phẩm: Ceylon cinnamon, true cinnamom, ceylon cinnamon bark oil, ceylan
cinnamon leaf oil, ceylon cinnamon bark
Hình thái
Cây gỗ thường xanh, cao 10-18m,
đường kính thân có thể đạt 50-60cm.
Cây thường phân cành từ gần gốc, tạo
thành tán rậm, hình bán cầu. Vỏ ngoài
ở cành non có màu nâu nhạt, nhẵn;
nhưng ở cành và thân già lại có màu
nâu xám hay nâu đậm. Các tế bào
chứa tinh dầu thường có trong vỏ hoặc
ở lớp gỗ dác trên thân. Lá đơn, mọc
đối; phiến lá hình trứng hay hình trái
xoan, kích thước 5-25x3-10cm; đầu
nhọn, gốc gần như tròn; mặt trên xanh
đậm, bóng; mặt dưới xanh nhạt, có
mùi thơm mạnh; gân chính 3 hoặc 5;
cuống lá dài 1-2cm.
Cụm hoa thường dạng chùm, mọc
ở nách lá hay ở đầu cành, dài khoảng
10cm, cuống có lông mềm, màu trắng
kem. Hoa nhỏ, màu vàng nhạt; đài hợp
ở phía dưới, dạng hình chuông ngắn;
Quế quan - Cinnamomum verum J. S. Presl.
nhị hữu thụ 9, xếp thành 3 vòng, chỉ
1- Cành mang lá và hoa; 2- Hoa; 3- Quả
nhị có lông mượt; vòi nhuỵ ngắn.
Quả hình trứng hay hình trái xoan, dài 1,3-1,7cm, có đài tồn tại, to, khi chín có màu đen,
hạt 1.
Các thông tin khác về thực vật
Những nghiên cứu về mặt thực vật cũng như hoá học về loài quế quan ở nước ta hầu như
chưa có gì đáng kể. Do đó còn có sự nhầm lẫn đáng tiếc về cả tên gọi và sản phẩm.
Các thông tin đã có cho biết, loài quế quan (C. verum) tại Sri Lanka rất đa dạng. Hiện vẫn
còn gặp nhiều dạng mọc hoang dại hoặc bán hoang dại. Thậm chí trong trồng trọt cũng có
nhiều giống khác nhau. Việc xác định sự khác nhau của chúng thường chỉ căn cứ vào hương vị
và địa điểm gây trồng.
Phân bố
Việt Nam:
Thanh Hoá (Bái Thượng), Nghệ An (Quỳ Châu), Khánh
Hoà, Tây Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu (Bà Rịa, Côn Đảo), Kiên
Giang (Phú Quốc).
Thế giới:
Cây có nguồn gốc từ Sri Lanka, miền Tây Nam Ấn Độ và
vùng Tenasserim Hill của Myanmar. Hiện đã được các nước
Trung Quốc, Indonesia và Madagascar đưa vào gây trồng.
Đặc điểm sinh học
Cây sinh trưởng thuận lợi ở những khu vực có khí hậu
ẩm, ấm áp với nhiệt độ trung bình năm đạt 270C, tổng lượng
mưa hàng năm 2.000-2.500mm và phân bố đều trong các
tháng. Cây ưa sáng, sinh trưởng tốt ở những khu vực đất
thấp, quang đãng. Điều kiện đất đai có ảnh hưởng rõ rệt đến
chất lượng vỏ. Tại Sri Lanka và Ấn Độ, cây thường cho sản
phẩm có chất lượng cao khi được trồng trên các loại đất cát,
Phân bố của quế quan ở Việt Nam
đất feralit có lẫn sỏi đá.
Quế đơn có hệ rễ phát triển mạnh và tương đối sâu. Cây phân cành nhiều ngay từ đoạn
thân gần gốc, tạo thành bộ tán rậm, nhiều cành. Ngọn và lá non thường có màu đỏ nhạt, sau
đó chuyển dần sang màu xanh đậm. Cây thụ phấn chéo nhờ côn trùng. Mùa quả tháng 4-9.
Công dụng
Thành phần hoá học:
Hàm lượng tinh dầu trong vỏ khoảng 0,5-2,0% với thành phần chính là (E)-cinnamaldehyd
(46-89%). Ngoài tinh dầu trong vỏ quế quan còn chứa tanin, nhựa dầu (oleoresin), protein,
pentosan, chất keo, xơ và các chất khoáng.
Tinh dầu lá quế quan có màu vàng đến vàng nâu nhạt với thành phần chính là eugenol
(70-95%), ngoài ra còn khoảng 50 hợp chất khác, trong đó các hợp chất có hàm lượng đáng kể
là linalool, cinnamyl acetat, β-caryophyllen, (E)-cinnamic aldehyd, benzyl benzoat…. Do có hàm
lượng eugenol cao, nên tinh dầu lá quế quan được dùng làm nguyên liệu để chuyển hoá thành
iso-eugenol và tổng hợp vanilin. Hạt chứa dầu béo (hàm lượng khoảng 30%) nên được dùng
làm dầu thực phẩm tại Ấn Độ và Sri Lanka.
Công dụng:
Quế vỏ được dùng làm gia vị trong công nghiệp chế biến thực phẩm (ướp thịt, cá, làm
bánh kẹo, sản xuất đồ hộp, nước giải khát). Tinh dầu từ vỏ và lá được sử dụng nhiều trong
công nghiệp dược phẩm và hoá mỹ phẩm.
Tại các nước châu Âu, tinh dầu từ vỏ quế quan được dùng để uống với chè vì nó có đặc
tính kích thích và diệt khuẩn.
Vỏ và tinh dầu quế quan cũng được sử dụng làm thuốc từ rất lâu đời trong y học dân tộc
tại các nước Nam Á (chữa đau bụng, đau dạ dày, tiêu hoá kém, kích thích tuần hoàn, hô hấp,
tăng nhu động ruột, gây co bóp tử cung, chữa tiêu chảy và bồi bổ cơ thể cho phụ nữ sau khi
sinh…).
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Nhân giống:
Có thể nhân giống quế quan bằng hạt hoặc bằng sinh dưỡng.
Hạt cần thu từ những cây sinh trưởng tốt, chống chịu khoẻ và ở độ tuổi 10-15 năm. Hạt
quế quan mất sức nẩy mầm rất nhanh, nên cần gieo ngay sau khi thu hái hoặc chỉ lưu giữ trong
cát ẩm một vài tuần. Có thể gieo hạt trên các luống đất trong vườn ươm, trong các bầu đất đã
được chuẩn bị sẵn hoặc gieo trực tiếp vào các hố đã đào sẵn trên diện tích sản xuất. Hạt tươi
thường nẩy mầm sau khi gieo khoảng 20-25 ngày.
Các cây con gieo theo luống, khi đã có đủ lá nên đánh ra ươm vào các bầu đất đã được
chuẩn bị trước và chừng 4-5 tháng sau đó đã có thể đưa trồng.
Cũng có thể nhân giống bằng các hom cành, chiết cành hoặc các chồi non tách từ các
đoạn rễ. Hom giống cần lấy từ những cành non hay cành bánh tẻ, mỗi hom dài 2-3 đốt. Trước
khi giâm nên xử lý hom giống bằng chất kích thích IBA (Indole Butyric Acid) ở nồng độ 2.500
ppm. Đất giâm cành cần được chuẩn bị, xử lý trước và đựng vào túi polyethylen. Mỗi hom
giống giâm vào một túi. Các túi đã giâm cành cần giữ đủ ẩm và che nắng tương tự như khi gieo
hạt. Khoảng 12-18 tháng sau đã có thể chuyển đi trồng. Cũng có thể tách từng đoạn rễ gần mặt
đất ở những cây đã bị đốn, mỗi đoạn dài 15-20cm còn cả rễ hút và bầu đất đem trồng.
Trồng và chăm sóc:
Thời vụ trồng tốt nhất là mùa xuân hoặc đầ ...