Danh mục

Roux-en-Y

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 105.65 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tên gọi này có nguồn gốc từ các bác sĩ phẫu thuật mà lần đầu tiên mô tả nó (César Roux). , Roux-en-Y hai mạch máu tiếp hợp với nhau trông giống như chữ Y. Thường, hai phía trên cành của chữ Y đại diện cho một phân đoạn gần của ruột non và ruột xa nhỏ nó tham gia và thấp hơn một phần của Y nhỏ ruột xa (ngoài hai mạch máu tiếp hợp với nhau).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Roux-en-Y Roux-en-Y1. Lịch sử:Tên gọi này có nguồn gốc từ các bác sĩ phẫu thuật mà lần đầu tiên mô tả nó (CésarRoux). , Roux-en-Y hai mạch máu tiếp hợp với nhau trông giống như chữ Y.Thường, hai phía trên cành của chữ Y đại diện cho một phân đoạn gần của ruộtnon và ruột xa nhỏ nó tham gia và thấp hơn một phần của Y nhỏ ruột xa (ngoài haimạch máu tiếp hợp với nhau).Roux-en-YS được sử dụng trong một số hoạt động:- Một số đi qua dạ dày cho bệnh béo phì.- Roux-en-Y tái thiết sau dạ dày một phần hoặc toàn bộ cho bệnh ung thư dạ dày.- Nối ống gan-hỗng tràng kiểu Roux-en-Y dùng để điều trị (vĩ mô) tắc nghẽn ốngmật có thể phát sinh do:+ Một khối u ống mật chủ hay ống gan khối u.+ Một chấn thương ống mật (ví dụ như cắt bỏ túi mật, phẫu thuật tai nạn bất ngờ,chấn thương).+ Bị nhiễm trùng / viêm nhiễm ( pseudocyst tụy).2. Một trường hợp cụ thểNối ống gan-hỗng tràng kiểu Roux-en-Y (nối OG-HT)Là loại phẫu thuật hay được sử dụng nhất trong hơn 30 năm qua, được coi làphương pháp qui ước trong điều trị sỏi và các bệnh lành tính khác của đường mật.Đây là cách gọi chung cho các phẫu thuật nối ống mật chính trong và/hay ngoàigan với hỗng tràng, bao gồm các nối thấp thường được gọi là nối OMC-HT và cácnối cao giữa ống mật trong gan với hỗng tràng. Đây cũng là phẫu thuật được lựachọn cho các trường hợp sỏi gan kèm theo trít hẹp hay dãn ống mật dạng nangbẩm sinh cần được cắt bỏ hoặc tạo hình.Kỹ thuậtNối OG-H T có thể tiến hành theo kiểu nối bên-bên, trên một quai Omega hay trênmột quai Roux-en-Y, nhưng hay bị các biến chứng là hội chứng túi cùng đườngmật dưới miệng nối và viêm đường mật trào ngược.Do vậy, hay được sử dụng nhất là nối OG-HT kiểu tận-bên trên một quai hỗngtràng Roux-en-Y (Hình 3), dài khoảng 40-60 cm. Nếu có khả năng sót sỏi, ngườita đặt ngược dòng qua quai này một ống cao su đường kính 3,5-5 mm và đưa lêntrên qua miệng nối mật-ruột, dùng để chụp đường mật hoặc để tạo một đ ường hầmdùng cho các can thiệp qua soi đường mật sau đó.Nối OG-HT kiểu tận-bên cũng có thể tiến hành trên một quai Omega (Hình 4) vớimiệng nối Braun ở chân quai ruột này, phương pháp này ít được sử dụng hơn.Các nhược điểm của nối OG-HT kiểu Roux-en-Y(1) Nhiều bằng chứng lâm sàng cho thấy sỏi sót trong gan không thể tụt hết dễdàng xuống ruột như trông đợi, nhất là trong các trường hợp sỏi tại phân thùy phảisau và phân thùy bên trái, và đặc biệt trong các trường hợp sỏi đóng khuôn ở ốngmật; các vụn sỏi to nhiễm trùng dính chặt vào thành các ống mật bị viêm rất khóxuống(9), sỏi thường tích dần trong các ống mật và là nguyên nhân chính của cácđợt viêm đường mật sau mổ;(2) Tỷ lệ lấy được sỏi sót sau đó qua đường hầm dẫn lưu thấp vì các lý do nhưđường hầm hẹp khó đưa được ống soi đường mật, hoặc quai Roux-en-Y dài trởngại cho thao tác. Trong công trình của Shao Qiang Li và cs, tỷ lệ lấy được sỏithấp hơn nhiều so với lấy sỏi qua đường hầm ống T sau mở OMC)(11);(3) Có một tỷ lệ bị viêm đường mật do nhiều nguyên nhân như hẹp ống mật khôngđược xử trí trong lần mổ đầu (hoặc) hẹp miệng nối mật-ruột (hoặc) sỏi sót (hoặc)trào ngược dịch tiêu hóa gặp trong 10%-15% trường hợp(1) (hoặc) giảm vận độngcủa chính quai Roux-en-Y (hầu như không có họat động thì IIIs và không có đápứng với thức ăn ở những bệnh nhân bị viêm đường mật tái diễn) và sau đó là vitrùng cư trú và phát triển trong quai ruột này(2), hiện tượng này cũng gặp ở cảnhững bệnh nhân nối OG-HT không có triệu chứng(7);(4) Nhiễm khuẩn dịch mật làm tăng nguy cơ của tái phát sỏi (do các enzym của vikhuẩn làm thủy phân bilirubine glucuronide th ành bilirubine tự do không liên kết,thành phần này không tan trong nước và kết hợp với calcium ion-hóa trong mậttạo ra calcium birubinate);(5) Nối OG-HT kinh điển làm mất đi sự toàn vẹn của hỗng tràng, có thể gây ra cácbiến chứng như loét dạ dày-tá tràng (do thay đổi môi trường kiềm-toan đường tiêuhóa trên) và hội chứng quai ruột tịt;(6) VIêm ống mật mạn tính lâu ngày có thể dẫn đến ung thư;Kết quả lâu dàiRothlin và cs (1998) cho rằng phẫu thuật này thường là tốt và đáng tin cậy, kết quảtốt (không hẹp lại và không bị tái diễn viêm đường mật) sau 7 năm có thể đạt 75-93%(10).Tuy vậy, nhiều tác giả khác lại cho rằng nối OG-HT không thể loại hết sỏi sót vàviêm đường mật do trào ngược được coi là nhược điểm lớn nhất của nối OG-HT.Người ta đã khắc phục bằng các biện pháp như lấy một quai Roux-en-X dài, tạocác van lồng... nhưng tất cả đều không đạt hiệu quả như mong muốn. Có tác giảđưa ra một tỷ lệ viêm đường mật hay áp xe gan cao hơn nhiều so với các trườnghợp không có nối OG-HT(6). Có trường hợp bị trít hẹp miệng nối. Tỷ lệ loét dạdày-tá tràng là 7-13%.Ngoài ra, còn một vấn đề đang được tranh luận là trong các trường hợp có khảnăng sót sỏi mà ống mật không bị trít hẹp (hay bị dãn dạng nang bẩm sinh) thì liệucó nên nối OG-HT hay không.Chỉ địnhHiện tại, người ta ...

Tài liệu được xem nhiều: