Danh mục

RƯỢU CẦN TÂY NGUYÊN NGHIÊN CỨU Ở NGƯỜI BANA (HUYỆN K'BANG – GIA LAI) VÀ NGƯỜI K'HO (HUYỆN LẠC DƯƠNG – LÂM ĐỒNG)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 463.01 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Từ lâu rượu đã là thức uống không thể thiếu đối với đồng bào ở TâynNguyên, nhất là trong các dịp lễ hội, tiếp khách, khi vui cũng như lúc có chuyện buồn … Tóm lại, mọi hỉ, nộ, ái, ố trong cuộc sống của người dân Tây Nguyên đều có bóng dáng của rượu. Nổi bật trong số đó là rượu cần (rượu ghè).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
RƯỢU CẦN TÂY NGUYÊN NGHIÊN CỨU Ở NGƯỜI BANA (HUYỆN K’BANG – GIA LAI) VÀ NGƯỜI K’HO (HUYỆN LẠC DƯƠNG – LÂM ĐỒNG) RƯỢU CẦN TÂY NGUYÊN NGHIÊN CỨU Ở NGƯỜI BANA (HUYỆN K’BANG – GIA LAI) VÀ NGƯỜI K’HO (HUYỆN LẠC DƯƠNG – LÂM ĐỒNG) Từ lâu rượu đã là thức uống không thể thiếu đối với đồng bào ở TâyNguyên, nhất là trong các dịp lễ hội, tiếp khách, khi vui cũng như lúc có chuyện buồn … Tóm lại, mọi hỉ, nộ, ái, ố trong cuộc sống của người dân Tây Nguyên đều có bóng dáng của rượu. Nổi bật trong số đó là rượu cần (rượu ghè). Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng, là địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc: Việt (Kinh), Êđê, Giarai, Mạ, Xơđăng, Bana, K’ho,… Họ đều là những dân tộc cư trú lâu đời ở vùng đất này. Không biết từ bao giờ, rượu cần đã hiện diện trong đời sống của họ. Theo truyền thuyết của nhiềudân tộc thì từ thời mông muội, Yang đã sai Y Rim xuống dạy người dân phátnương, làm rẫy, săn bắt. Khi cái bụng đã no, cái thân thể đã ấm áp, Y Rimlại dạy họ cách làm rượu cần để tâm hồn con người được sảng khoái, chântay được thoải mái mà múa hát. Riêng với người K’ho thì chính con nhím đãdạy họ kỹ thuật làm loại rượu này. Theo đó, làm rượu bằng quả mọng và cácthứ quả nát thì không ngon, làm bằng củ sẽ thành thuốc độc, chỉ làm bằngnhững viên bột gạo mới có được rượu ngon. Con nhím đã chỉ một cách cụthể là cần bao nhiêu viên bột gạo, liều lượng thảo mộc (để tạo mùi và men)cho một ché rượu! Nó còn dạy cách đặt than hồng dưới đáy ghè và một lớptrấu bên trên, rồi nhím tự rút dạ dày của mình, giã nhỏ và trộn với cơm rượu!Vì vậy, với người K’Ho thì bao tử Nhím được dùng như một thành phầnkhông thể thiếu trong cách làm rượu cần: “ Người ta lấy củ và lá cây laha,rieh, rễ cây dòng và một miếng bao tử nhím đã phơi thật khô giã nhuyễn trộnvới bột gạo (khi giã bột gạo làm men, bắt buộc phải nhờ đến 8 người cùnggiã), nắm lại thành từng nắm bằng trái cam nhỏ, đem phơi khô, gác trên dànbếp(1) để dùng khi làm rượu. Để làm được một ché rượu cần phải trải qua nhiều công đoạn. Trước hếtlà chuẩn bị nguyên liệu với các loại gạo tẻ, gạo nếp, khoai mì,... nói chung( 2) Linh Nga Niêk Dam (chủ biên), Văn hóa dân gian truyền thống của tộc người K’Ho, Nxb Thanhniên, 2011, trang 75 – 76.ngũ cốc có tinh bột đều làm được rượu nhưng điều quan trọng nhất vẫn làtạo ra mùi hương. Để tạo ra hương vị cay nồng, đắng, ngọt, thơm... chorượu, nhiều người sử dụng gần 30 loại thảo mộc như: sa nhân, đinh hương,quế, thảo khấu... Nhưng theo đồng bào Chil (một nhóm của dân tộc K’ho, xãLát – Lạc Dương) thì đó vẫn chỉ là loại rượu “thương phẩm” mà muốn cómột ché rượu ngon đúng nghĩa, cần phải dùng loại men thích hợp. Loại mennày là một bí truyền, không phải ai cũng làm được. Theo kinh nghiệm củađồng bào thì vào mùa xuân, khi cây atisô rừng bắt đầu ra hoa và cho nhựa,họ vào rừng sâu tìm rễ và bông của loại cây nàymang về phơi khô, giã thành bột để làm men.Đây là loại men có tính độc (pơ ngai), có thểgây chết người ở liều lượng cao, nhưng với liềulượng vừa đủ, nó chỉ làm cho người ngây ngấtmà thôi. Kế đến, lấy bột men trộn đều với cơmgạo hoặc bắp... giã nhuyễn và tạo thành những vú men to cỡ cái chén, đemhong trên bếp lửa một thời gian ngắn sẽ hóa thành men có màu trắng đục.Đây mới chính là loại men rừng dùng để làm rượu cần đúng nghĩa. Tất cảnhững nguyên liệu đó được cho vào ghè (ché), bịt thật kín (ủ rượu), để nơikhô ráo, thoáng mát, thời gian càng lâu rượu càng ngon. Nguyên liệu, cách làm rượu cần vốn là công thức bí truyền của ngườidân Tây Nguyên. Là một thức uống nhưng mỗi dân tộc có một công thứckhác nhau làm nên hương vị riêng biệt cho rượu, tùy thuộc vào loại thảomộc tạo men rượu và những nguyên liệu: gạo nương (có thể thêm khoai mì,bắp, hạt cào – một loại cỏ ở Tây Nguyên, bo bo, kê…) nhưng chủ yếu vẫn làgạo tẻ, vì làm rượu bằng ngô hoặc sắn, rượu có vị đắng khó uống, gây đauđầu ảnh hưởng tới sức khỏe. Ché rượu người của đồng bào Tây Nguyên vừacó giá trị tinh thần vừa có giá trị vật chất. Giá trị tinh thần đến từ tín ngưỡngthần thánh hóa sự vật, họ cho rằng mỗi ché rượu đều có một vị thần canhgiữ. Tùy vào quan niệm mà vị thần và giá trị của các ché rượu ở các tộcngưởi cũng khác nhau. Ở khía cạnh vật chất, ché chính là thước đo của sựgiàu nghèo, địa vị xã hội và tình cảm chủ nhà dành cho đối tượng được đóntiếp. Về cơ bản, đồng bào phân loại: ché to và quí, rượu ngon dùng để cúngYang, tiếp khách quí; ché to nhưng bình thường (không phải ché quí) để tiếpkhách phương xa; ché nhỏ thường dùng trong dịp lâu ngày gặp bạn;... Ở Tây Nguyên, dù là ngôi nhà công cộng (nhà Rông) hay nhà ở củatừng gia đình luôn có một cây cọc để buộc ché rượu (thường gọi cọc uốngrượu). Cọc uống rượu ở nhà Rông cao vút đến ...

Tài liệu được xem nhiều: