Danh mục

SÁCH LINH KHU - THIÊN 71: TÀ KHÁCH

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 89.23 KB      Lượt xem: 4      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hoàng Đế hỏi Bá Cao: "Ôi ! Tà khí ở khách nơi con người, có khi làm cho mắt không nhắm lại được, không nằm được chỉ muốn ra ngoài, khí gì đã gây nên như thế ?”[1]. Bá Cao đáp : “Ngũ cốc nhập vào Vị, chất bã, tân dịch, và tông khí đều đi theo đúng 3 con đường của mình[2]. Do đó, ta biết tông khí tích lại trong ngực, xuất ra ở cổ họng nhằm quán thông Tâm mạch để rồi làm vận hành con đường hô hấp[3]. Doanh khí thì đưa tân dịch thấm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SÁCH LINH KHU - THIÊN 71: TÀ KHÁCH SÁCH LINH KHU THIÊN 71: TÀ KHÁCH Hoàng Đế hỏi Bá Cao: Ôi ! Tà khí ở khách nơi con người, có khi làmcho mắt không nhắm lại được, không nằm được chỉ muốn ra ngoài, khí gì đãgây nên như thế ?”[1]. Bá Cao đáp : “Ngũ cốc nhập vào Vị, chất bã, tân dịch, và tông khí đềuđi theo đúng 3 con đường của mình[2]. Do đó, ta biết tông khí tích lại trongngực, xuất ra ở cổ họng nhằm quán thông Tâm mạch để rồi làm vận hànhcon đường hô hấp[3]. Doanh khí thì đưa tân dịch thấm chảy ra để rót vàomạch, hóa thành huyết, nhằm làm tươi thắm cho tứ chi, bên trong nó rót vàolục phủ ngũ tạng, vận hành khắp chu thân, ứng được với con số lậu thủybách khắc[4]. Vệ khí xuất ra từ khí nhanh lẹ, hung hãn của thủy cốc, trướchết vận hành trong khoảng bì phu, phận nhục và tứ chi, vận hành 1 cáchkhông ngừng nghỉ[5]. Ban ngày nó vận hành ở Dương phận, ban đêm vậnhành ở Âm phận, thường đi từ vùng khí của Túc Thiếu âm Thận, sau đó vậnhành đến ngũ tạng lục phủ[6]. Nay nếu tà khí quyết nghịch để ở khách tạingũ tạng lục phủ, sẽ làm cho vệ khí chỉ có thể bảo vệ bên ngoài, và chỉ vậnhành được ở Dương phận không nhập được vào Âm phận, nhân vì vệ khí chỉvận hành được ở Dương, cho nên Dương khí bị thịnh, khi mà Dương khí b ịthịnh sẽ làm cho mạch Dương Kiểu bị sung mãn, mà không nhập vào đượcÂm phận, Âm bị hư, làm cho mắt không nhắm lại được”[7]. Hoàng Đế nói: Đúng vậy ! Phép trị phải thế nào ?”[8]. Bá Cao đáp : “Phép trị phải bổ phần Âm bất túc, phải tả phần Dươnghữu dư, điều hòa khí hư và thực, làm thông sướng được mạch đạo, đuổiđược tà khí[9]. Nên uống 1 tễ Bán Hạ Thang, khi nào Âm Dương đượcthông thì người ta sẽ ngủ được an giấc ngay”[10]. Hoàng Đế nói: Đúng vậy ! Đây gọi là phương pháp khai thông ngòinào đang bị ủng tắc, làm cho kinh mạch đại thông, làm cho Âm Dương điềuhòa ổn định, Ta mong được nghe về vai trò của bài Bán Hạ Thang”[11]. Bá Cao đáp : “Phép dùng bài Bán Bạ Thang này là: phải lấy 8 thăngnước từ nguồn nước ngoài ngàn dặm, chứa trong 1 dụng cụ bằng sành, rồiquậy lên đến vạn lần, lóng lấy nước trong 5 thăng, dùng củi bằng cây lau sậyđể nấu nước, đợi sôi rồi cho vào 1 thăng gạo nếp, xong dùng 5 hợp Bán Hạcho vào, sắc bằng lửa nhỏ, đến chừng nào còn khoảng 1 thăng rưỡi, bỏ bã,uống 1 ly nhỏ nước cốt, mỗi ngày uống 3 lần, hoặc dựa vào bệnh tình, nếunặng hơn, nhắm chừng độ thích ứng để uống[12]. Vì thế, nếu bệnh mới phát,chỉ cần uống xong, úp ly vào chỗ cũ (vừa uống xong) thì người bệnh sẽ nằmxuống ngủ, hoặc mồ hôi vừa ra thì khỏi bệnh[13]. Nếu bệnh đã lâu, chỉ cầnuống xong 3 tễ là khỏi bệnh”[14]. Hoàng Đế hỏi Bá Cao: Ta mong được nghe về tứ chi, và bách tiếtcủa con người ứng với Thiên Địa như thế nào ?”[15]. Bá Cao đáp : “Trời tròn, Đất vuông, ứng với đầu người tròn và chânngười vuông[16]. Trời có mặt trăng, con người có đôi mắt[17]. Đất có cửuchâu, con người có cửu khiếu[18]. Trời có mưa gió, con người có vuigiận[19]. Trời có sấm điện, con người có âm thanh[20]. Trời có tứ thời, conngười có tứ chi[21]. Trời có ngũ âm, con người có ngũ tạng[22]. Trời có lụcluật, con người có lục phủ[23]. Trời có mùa đông hạ, con người có khí hànnhiệt[24]. Trời có Thập nhật (can), con người có thập chỉ (ngón tay)[25].Đất có 12 Địa chi, con người có 10 ngón chân, có Dương vật và dịch hoànđể ứng, con gái không có 2 vật (dương vật và hòn dái) nhưng có khả năngmang thai[26]. Trời có Âm Dương, con người có vợ chồng[27]. Trời có 365ngày, con người có 360 (365) cốt tiết[28]. Đất có núi cao, con người có vaivà gối[29]. Đất có hang sâu, con người có nách và kheo chân[30]. Đất có 12kinh thủy, con người có 12 kinh mạch[31]. Đất có mạch suố i dưới lòng đất,con người có vệ khí[32]. Đất có cỏ mọc khắp nơi, con người có lông hào vàlông mao khắp thân mình[33]. Trời có ngày đêm, con người có ngủthức[34]. Trời có các vị sao, con người có 2 hàm răng[35]. Đất có núi nhỏ,con người có cốt tiết nhỏ[36]. Đất có núi và đá, con người có xương gồ lêncao[37]. Đất có cây rừng, con người có cân mạch[38]. Đất có nơi để ngườita tụ họp lại thành ấp, con người có những bắp thịt gồ lên[39]. Tuế (năm) có12 nguyệt, con người có 12 tiết[40]. Đất có những nơi mà tứ thời không sinhra cỏ, con người có những người không có con[41]. Đó là sự tương ứng giữaTrời Đất và con người”[42]. Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: Ta mong được nghe giảng về những phép tắcvề những thao tác trong khi châm, về nguyên lý trong việc châm kim vàothân người, về ý nghĩa việc bổ tả, nghênh tùy, về thao tác căng da để làmkhai tấu lý, tất cả những vấn đề đó, phải hiểu như thế nào ?[43]. Đồng thờicon đường khúc chiết, quanh co, xuất nhập của mạch khí, đến nơi nào thìxuất ra ? Đến nơi nào thì dừng lại ? Đến nơi nào thì chậm lại ? Đến nơi nàothì nhanh lên ? Đến nơi nào thì nhập vào ?[44]. Và ngay cả các du huyệtthuộc lục phủ rót vào ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: