Danh mục

Sinh kế của cộng đồng ngư dân ven biển: Thực trạng và giải pháp

Số trang: 0      Loại file: pdf      Dung lượng: 687.39 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (0 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Một số thông tin về tình trạng khai thác thủy sản ở Việt Nam, thực trạng sinh kế của cộng đồng ngư dân ven biển, những định hướng chủ yếu về sinh kế bền vững vùng ven biển và các mô hình sinh kế đề xuất,... là những nội dung chính trong bài viết "Sinh kế của cộng đồng ngư dân ven biển: Thực trạng và giải pháp". Mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sinh kế của cộng đồng ngư dân ven biển: Thực trạng và giải pháp 54 Xã hội học, số 4 (116), 2011 SINH KẾ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN VEN BIỂN: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NGUYỄN XUÂN MAI* NGUYỄN DUY THẮNG** 1. Giới thiệu 1.1. Một số thông tin về tình trạng khai thác thủy sản ở Việt Nam Việt Nam có trên 3.000km bờ biển, trài dài từ Móng Cái đến Hà Tiên với bốn khu vực đánh cá chính là Vịnh Bắc Bộ, Miền Trung, Đông Nam Bộ, và Tây Nam Bộ. Vùng nước đánh bắt thủy sản được chia thành gần bờ, trong lộng và xa bờ (ngoài khơi). Vùng nước gần bờ là những khu vực trong vòng 6 hải lý tính từ bờ biển trở ra, từ 6-24 hải lý là trong lộng và ngoài khơi – trên 24 hải lý. Theo một đánh giá gần đây, tiềm năng thủy sản biển được ước tính khoảng 4,2 triệu tấn/năm, trong đó sản lượng đánh bắt cho phép hàng năm là 1,7 triệu tấn. Trong năm 2010, tổng sản lượng khai thác biển đạt 2,5 triệu tấn, vượt quá ngưỡng cho phép đánh bắt gần 50%. Truyền thống của cộng đồng ngư dân ven biển là đánh bắt trực tiếp từ bãi biển hoặc trong rừng ngập mặn nông, cửa sông, đầm phá, nhờ ảnh hưởng của thủy triều. Một loạt các ngư cụ từ đơn giản đến tinh vi đã được sử dụng để bắt tất cả các loại cá và các loài động vật có vỏ. Trong năm 2010, khoảng 107.500 tàu thuyền đánh cá nhỏ đang hoạt động gần bờ, trong đó có 5.200 tàu thuyền là không có động cơ (đánh cá dọc theo bờ biển với mức nước 4-5 m ), còn lại khoảng 102.300 tàu thuyền cơ giới nhỏ (20CV đến 20CV-90CV. Các hộ sẽ cử ra trưởng nhóm và xây dựng các quy định hoạt động của nhóm. Mô hình này đã được thảo luận với các nhóm dân đánh bắt. Tuy nhiên, ngư dân ở ấp Mỹ Thanh (Vĩnh Hải) và Mỏ Ó (xã Trung Bình) tỉnh Sóc Trăng cho rằng mô hình này khó thực hiện và không bền vững vì việc đồng sở hữu sẽ dẫn đến không ai chịu trách nhiệm. Vì vậy, mô hình này cần được thảo luận kỹ với các hộ và trên nguyên tắc tự nguyện. Các hộ ngư dân ở xã An Thạnh 3, huyện Cù lao Dung, Sóc Trăng, đề xuất cải hoán tàu đánh bắt của họ sang tàu vận tải để làm dịch vụ vận tải mía, vật liệu xây dựng và các hàng hóa khác. Một mô hình HTX dịch vụ đã được đưa ra để thảo luận. Theo đó, cải hoán các tàu đánh bắt (nếu có thể) hoặc đóng mới một số tàu vận tải và thành lập HTX dịch vụ vận tải. HTX sẽ quản lý và điều phối hoạt động của đội tàu. Nhu cầu vận chuyển mía từ Cù Lao Dung và các địa phương khác đến nhà máy đường Sóc Trăng, vận chuyển vật liệu xây dựng và hàng hóa khác trên địa bàn huyện rất lớn. Mô hình HTX này sẽ thu hút được nhiều lao động có kinh nghiệm sông nước của các hộ đánh bắt cũng như các lao động phổ thông ở địa phương. Mô hình hợp tác xã nghêu: hiện tại ở Sóc Trăng đã có một HTX nghêu với hơn 500 hộ thành viên. Các hộ tham gia HTX phải đóng một khoản lệ phí hội viên là 50.000đ/hộ và được cấp phát một thẻ thành viên. Các hộ sẽ được quyền khai thác nghêu trong bãi nghêu của HTX theo tiêu chuẩn và quy định của HTX mà các hộ cam kết. Sản phẩm khai thác sẽ được phân bổ theo tỷ lệ người lao động hưởng 70% và HTX 30%. Mô hình HTX này một mặt tập trung được các lao động đánh bắt ven bờ bỏ nghề đánh bắt tự do để chuyển vào Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Mai Văn Hai & Nguyễn Duy Thắng 65 khai thác nghêu trong HTX, mặt khác họ tham gia bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ven bờ và rừng ngập mặn, tránh việc khai thác bừa bãi bởi những người dân từ bên ngoài cộng đồng. Các mô hình sinh kế dựa vào đất Các mô hình sinh kế thay thế đánh bắt ven bờ có thể theo định hướng lâu bền hơn với các mô hình chuyển đổi sinh kế không đánh bắt, dựa vào đất hay không dựa vào đất. Tùy theo đặc điểm vốn tài nguyên đất đai, con người, tài chính, điều kiện tự nhiên, môi trường kinh tế khu vực… mà các cộng đồng ven biển có thể lựa chọn các mô hình sinh kế thay thế phù hợp. Chẳng hạn, ở khu vực Bắc trung bộ và Duyên hải Nam trung bộ, điều kiện đất đai hạn chế hơn nhiều so với ĐBSCL nên các mô hình sinh kế thay thế dựa vào đất có thể khó lựa chọn hơn các loại mô hình khác. Mặt khác, trong điều kiện vốn tài nguyên như đất, mặt nước rất khan hiếm thì các mô hình sinh kế được đề xuất cần dựa trên nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, việc tận dụng các lợi thế của các dải đất đai ven bờ, của các đầm phá, để NTTS như ngao-loài nuôi không cần cho ăn, thích hợp cho các hộ nghèo, cận nghèo. Trồng rừng ngập mặn và NTTS sinh thái Rừng ngập mặn (RNM) có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội, môi trường, với nhiều tác dụng như: bảo vệ tính đa dạng sinh học của thảm thực vật ngập mặn; phòng hộ ven biển và mở nhanh diện tích các bãi bồi ra biển; giảm bớt sự xáo trộn đất đai và ô nhiễm nguồn nước ven biển; tạo ...

Tài liệu được xem nhiều: