![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
So sánh hiệu quả điều trị giữa lấy sỏi qua da nằm ngửa và nằm sấp
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 407.65 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết đánh giá hiệu quả điều trị giữa hai phương pháp điều trị lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa và nằm sấp. Đây là nghiên cứu tiến cứu bệnh nhân được chia làm hai nhóm, được thực hiện lấy sỏi qua da, nhóm I gồm những bệnh nhân được lấy sỏi qua da theo phương pháp nằm ngửa, để hở vùng hông lưng và nhóm II gồm bệnh nhân được tiến hành lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
So sánh hiệu quả điều trị giữa lấy sỏi qua da nằm ngửa và nằm sấpY Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học SO SÁNH HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ GIỮA LẤY SỎI QUA DA NẰM NGỬA VÀ NẰM SẤP Nguyễn Lê Quý Đông*, Lê Văn Hiếu Nhân*, Trần Thanh Nhân*, Phạm Phú Phát*TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị giữa hai phương pháp điều trị lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa vànằm sấp. Bệnh nhân và phương pháp: Đây là nghiên cứu tiến cứu bệnh nhân được chia làm hai nhóm, đượcthực hiện lấy sỏi qua da, nhóm I gồm những bệnh nhân được lấy sỏi qua da theo phương pháp nằm ngửa, đểhỗng vùng hông lưng và nhóm II gồm bệnh nhân được tiến hành lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp. Hai nhómnày được tiến hành bởi cùng một phẫu thuật viên trong khoảng thời gian thứ 1 từ tháng 10 năm 2017 đếntháng 8 năm 2018 và khoảng thời gian thứ 2 từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019, tại Bệnh việnBình Dân. Các yếu tố được so sánh bao gồm đặc điểm bệnh nhân, đặc điểm sỏi và các yếu tố liên quan đếncuộc mổ và sau mổ được ghi nhận. Kết quả: Có 91 bệnh nhân (50 nam: 41 nữ) được tiến hành nghiên cứu và được chia làm hai nhóm,nhóm I gồm 61 bệnh nhân được lấy sỏi qua da tư thế ngửa và nhóm II gồm 30 bênh nhân được lấy sỏi quada tư thế nằm sấp. Trong khoảng thời gian thứ 1 có 30 trường hợp lấy sỏi qua da tư thế ngửa và 30 trườnghợp lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp, trong khoảng thời gian thứ 2 chỉ có 31 trường hợp tán sỏi qua tư thếngửa. Những đặc điểm bệnh nhân giữa 2 nhóm như tuổi và chỉ số khối cơ thể là như nhau. Về kích thước sỏigiữa hai nhóm (nhóm I: 27,2 ± 11,6 mm, nhóm II: 22,8 ± 12,8 mm) sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê,p> 0,05. Trong giai đoạn 1 của nghiên cứu, thời gian mổ với tư thế nằm ngửa tương đương so với (sv) tưthế nằm sấp (115,3 ± 15,75 phút sv 123,09 ± 29,5 phút). Tuy nhiên, ở giai đoạn 2 thì thời gian mổ của nhómtư thế nằm ngửa ngắn hơn đáng kể (84,98 ± 35,7 phút). Tỉ lệ sạch sỏi của tư thế nằm ngửa thì thấp hơn sovới tư thế nằm sấp (70,5% sv 80%), tuy nhiên khi phân độ tỉ lệ sạch sỏi theo phân độ sỏi Guy thì giữa 2nhóm tư thế sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p>0,05. Tỉ lệ biến chứng ở nhóm nằm ngửa cao hơn sovới nằm sấp (11,4% sv 0%) và đa số gặp ở những trường hợp đầu tiên. Kết luận: Khi so sánh với lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp, tư thế nằm ngửa có thời gian phẫu thuật ngắn hơnvới tỉ lệ sạch sỏi theo phân độ Guy là tương đương. Biến chứng của tư thế nằm ngửa ban đầu nhiều hơn nằmsấp, nhưng về sau mức độ biến chứng giữa hai nhóm là như nhau. Từ khóa: lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa và nằm sấpABSTRACT SUPINE VERSUS PRONE POSITION IN PERCUTANEOUS NEPHROLITHOTOMY: A COMPARATIVE STUDY Nguyen Le Quy Dong, Le Van Hieu Nhan, Tran Thanh Nhan, Pham Phu Phat * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 85 – 90 Objectives: To evaluate the outcomes between the supine and prone position in percutaneousnephrolithotomy (PCNL). Methods: A prospective study with 2 groups, group I was for supine, flank – free, position and group II werefor prone position. Two groups were undergone PCNL by one surgeon in the first period from October 2017 to*Khoa Niệu A – Bệnh viện Bình DânTác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Lê Quý Đông ĐT: 0938671066 Email: dongurology@gmail.comChuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 85Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019August 2018 and the second period from September 2018 to March 2019 in Binh Dan Hospital. The patientcharacteristics, the stone diameter, intra-operation and post-operation factors were compared. Result: There were 91 patients (50 male: 41 female) undergone PCNL and divided into 2 groups, group Iwas 61 patients for supine PCNL and group 2 was 30 patients for prone PCNL. In the first period, there were 30cases with supine PCNL and 30 cases with prone; in the second period there were only 31 cases with supine.Patient characteristics such as age and BMI were the same in 2 groups. The difference in stone size (group I: 27.2± 11.6 mm, group II: 22.8 ± 12.8 mm) was not statistics significant. In the first period, the mean operation time insupine PCNL was approximate with prone PCNL (115.3 ± 15.75 mins vs 123.09 ± 29.5 mins). However, in thesecond period, the mean operation time of supine position was reduced radically (84.98 ± 35.7 mins). The overallstone free rate of supine PCNL were lower than prone PCNL (70.5% vs 80%), however classification the stonefree rate according to the Guy stone score, there was no difference in statistics with p>0.05. The complications insupine position were higher than prone (11.4% vs 0%) but most of cases were in the first period. Result: In comparison with prone PCNL, supine PCNL was shorter in operation time with the similar stonefree rate classified by Guy stone score. The complications were the higher in supine but most of complicated caseswere in the first period time, after this time two surgical positions were the same rate of complications. Keywords: the outcomes between the supine and prone position in percutaneous nephrolithotomyĐẶT VẤN ĐỀ tác giả Đông và cộng sự đã báo cáo kết quả Lấy sỏi qua da là lựa chọn hàng đầu cho những trường hợp lấy sỏi qua da với tư thếbệnh nhân có sỏi thận với kích thước lớn, hơn 2 nằm ngửa đầu tiên tại Việt Nam(6,7) với kết quảcm(10). Thông thường, phẫu thuật lấy sỏi qua da khả quan. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nàođược thực hiện qua tư thế nằm sấp cho bề mặt so sánh trực hiệu quả điều trị giữa hai phươngđâm kim rộng hơn và với giả thiết rằn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
So sánh hiệu quả điều trị giữa lấy sỏi qua da nằm ngửa và nằm sấpY Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học SO SÁNH HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ GIỮA LẤY SỎI QUA DA NẰM NGỬA VÀ NẰM SẤP Nguyễn Lê Quý Đông*, Lê Văn Hiếu Nhân*, Trần Thanh Nhân*, Phạm Phú Phát*TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị giữa hai phương pháp điều trị lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa vànằm sấp. Bệnh nhân và phương pháp: Đây là nghiên cứu tiến cứu bệnh nhân được chia làm hai nhóm, đượcthực hiện lấy sỏi qua da, nhóm I gồm những bệnh nhân được lấy sỏi qua da theo phương pháp nằm ngửa, đểhỗng vùng hông lưng và nhóm II gồm bệnh nhân được tiến hành lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp. Hai nhómnày được tiến hành bởi cùng một phẫu thuật viên trong khoảng thời gian thứ 1 từ tháng 10 năm 2017 đếntháng 8 năm 2018 và khoảng thời gian thứ 2 từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019, tại Bệnh việnBình Dân. Các yếu tố được so sánh bao gồm đặc điểm bệnh nhân, đặc điểm sỏi và các yếu tố liên quan đếncuộc mổ và sau mổ được ghi nhận. Kết quả: Có 91 bệnh nhân (50 nam: 41 nữ) được tiến hành nghiên cứu và được chia làm hai nhóm,nhóm I gồm 61 bệnh nhân được lấy sỏi qua da tư thế ngửa và nhóm II gồm 30 bênh nhân được lấy sỏi quada tư thế nằm sấp. Trong khoảng thời gian thứ 1 có 30 trường hợp lấy sỏi qua da tư thế ngửa và 30 trườnghợp lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp, trong khoảng thời gian thứ 2 chỉ có 31 trường hợp tán sỏi qua tư thếngửa. Những đặc điểm bệnh nhân giữa 2 nhóm như tuổi và chỉ số khối cơ thể là như nhau. Về kích thước sỏigiữa hai nhóm (nhóm I: 27,2 ± 11,6 mm, nhóm II: 22,8 ± 12,8 mm) sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê,p> 0,05. Trong giai đoạn 1 của nghiên cứu, thời gian mổ với tư thế nằm ngửa tương đương so với (sv) tưthế nằm sấp (115,3 ± 15,75 phút sv 123,09 ± 29,5 phút). Tuy nhiên, ở giai đoạn 2 thì thời gian mổ của nhómtư thế nằm ngửa ngắn hơn đáng kể (84,98 ± 35,7 phút). Tỉ lệ sạch sỏi của tư thế nằm ngửa thì thấp hơn sovới tư thế nằm sấp (70,5% sv 80%), tuy nhiên khi phân độ tỉ lệ sạch sỏi theo phân độ sỏi Guy thì giữa 2nhóm tư thế sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p>0,05. Tỉ lệ biến chứng ở nhóm nằm ngửa cao hơn sovới nằm sấp (11,4% sv 0%) và đa số gặp ở những trường hợp đầu tiên. Kết luận: Khi so sánh với lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp, tư thế nằm ngửa có thời gian phẫu thuật ngắn hơnvới tỉ lệ sạch sỏi theo phân độ Guy là tương đương. Biến chứng của tư thế nằm ngửa ban đầu nhiều hơn nằmsấp, nhưng về sau mức độ biến chứng giữa hai nhóm là như nhau. Từ khóa: lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa và nằm sấpABSTRACT SUPINE VERSUS PRONE POSITION IN PERCUTANEOUS NEPHROLITHOTOMY: A COMPARATIVE STUDY Nguyen Le Quy Dong, Le Van Hieu Nhan, Tran Thanh Nhan, Pham Phu Phat * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 85 – 90 Objectives: To evaluate the outcomes between the supine and prone position in percutaneousnephrolithotomy (PCNL). Methods: A prospective study with 2 groups, group I was for supine, flank – free, position and group II werefor prone position. Two groups were undergone PCNL by one surgeon in the first period from October 2017 to*Khoa Niệu A – Bệnh viện Bình DânTác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Lê Quý Đông ĐT: 0938671066 Email: dongurology@gmail.comChuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 85Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019August 2018 and the second period from September 2018 to March 2019 in Binh Dan Hospital. The patientcharacteristics, the stone diameter, intra-operation and post-operation factors were compared. Result: There were 91 patients (50 male: 41 female) undergone PCNL and divided into 2 groups, group Iwas 61 patients for supine PCNL and group 2 was 30 patients for prone PCNL. In the first period, there were 30cases with supine PCNL and 30 cases with prone; in the second period there were only 31 cases with supine.Patient characteristics such as age and BMI were the same in 2 groups. The difference in stone size (group I: 27.2± 11.6 mm, group II: 22.8 ± 12.8 mm) was not statistics significant. In the first period, the mean operation time insupine PCNL was approximate with prone PCNL (115.3 ± 15.75 mins vs 123.09 ± 29.5 mins). However, in thesecond period, the mean operation time of supine position was reduced radically (84.98 ± 35.7 mins). The overallstone free rate of supine PCNL were lower than prone PCNL (70.5% vs 80%), however classification the stonefree rate according to the Guy stone score, there was no difference in statistics with p>0.05. The complications insupine position were higher than prone (11.4% vs 0%) but most of cases were in the first period. Result: In comparison with prone PCNL, supine PCNL was shorter in operation time with the similar stonefree rate classified by Guy stone score. The complications were the higher in supine but most of complicated caseswere in the first period time, after this time two surgical positions were the same rate of complications. Keywords: the outcomes between the supine and prone position in percutaneous nephrolithotomyĐẶT VẤN ĐỀ tác giả Đông và cộng sự đã báo cáo kết quả Lấy sỏi qua da là lựa chọn hàng đầu cho những trường hợp lấy sỏi qua da với tư thếbệnh nhân có sỏi thận với kích thước lớn, hơn 2 nằm ngửa đầu tiên tại Việt Nam(6,7) với kết quảcm(10). Thông thường, phẫu thuật lấy sỏi qua da khả quan. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nàođược thực hiện qua tư thế nằm sấp cho bề mặt so sánh trực hiệu quả điều trị giữa hai phươngđâm kim rộng hơn và với giả thiết rằn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Bài viết về y học Lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa Lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp Kĩ thuật đâm kim Tư thế nằm ngửa để hở vùng hông lưngTài liệu liên quan:
-
Đặc điểm giải phẫu lâm sàng vạt D.I.E.P trong tạo hình vú sau cắt bỏ tuyến vú do ung thư
5 trang 214 0 0 -
Tạp chí Y dược thực hành 175: Số 20/2018
119 trang 199 0 0 -
6 trang 194 0 0
-
Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ ở Trung tâm Chẩn đoán Y khoa thành phố Cần Thơ
13 trang 191 0 0 -
8 trang 188 0 0
-
Kết quả bước đầu của ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong phát hiện polyp đại tràng tại Việt Nam
10 trang 188 0 0 -
Đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ của suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới
14 trang 187 0 0 -
Nghiên cứu định lượng acyclovir trong huyết tương chó bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao
10 trang 184 0 0 -
Phân tích đồng phân quang học của atenolol trong viên nén bằng phương pháp sắc ký lỏng (HPLC)
6 trang 182 0 0 -
6 trang 174 0 0