Danh mục

TAI BIẾN CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI Ổ BỤNG TRONG PHỤ KHOA

Số trang: 23      Loại file: pdf      Dung lượng: 202.02 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 14,000 VND Tải xuống file đầy đủ (23 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục tiêu: đánh giá và rút kinh nghiệm các tai biến của phẫu thuật nội soi ổ bụng trong phụ khoa tại Bệnh viện Từ Dũ từ năm 2004 đến năm 2006 Thiết kế nghiên cứu: mô tả các trường hợp bệnh được tiến hành tại Bệnh viện Từ Dũ qua hồi cứu hồ sơ và đĩa ghi hình 28 trường hợp tai biến của phẫu thuật nội soi ổ bụng từ năm 2004 đến năm 2006. Kết quả: tỉ lệ tai biến trong phẫu thuật nội soi ổ bụng là 1,5‰, tỉ lệ tử vong là 5,5/100.000. Đa số...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TAI BIẾN CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI Ổ BỤNG TRONG PHỤ KHOA TAI BIẾN CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI Ổ BỤNG TRONG PHỤ KHOA Tóm tắt: Mục tiêu: đánh giá và rút kinh nghiệm các tai biến của phẫu thuật nội soi ổ bụng trong phụ khoa tại Bệnh viện Từ Dũ từ năm 2004 đến năm 2006 Thiết kế nghiên cứu: mô tả các trường hợp bệnh được tiến hành tại Bệnh viện Từ Dũ qua hồi cứu hồ sơ và đĩa ghi hình 28 trường hợp tai biến của phẫu thuật nội soi ổ bụng từ năm 2004 đến năm 2006. Kết quả: tỉ lệ tai biến trong phẫu thuật nội soi ổ bụng là 1,5‰, tỉ lệ tử vong là 5,5/100.000. Đa số các tai biến nằm trong nhóm phẫu thuật nội soi nâng cao (71,4%), tuy nhiên vẫn có những tai biến nặng nề trên những phẫu thuật có tính đơn giản. Tai biến trên hệ niệu chiếm tỉ lệ cao nhất (35,7%), đa số là dò bàng quang và niệu quản, thứ nhì là tai biến trên hệ tiêu hoá, chủ yếu là thủng đại tràng và ruột non. Khó khăn thường gặp trong các ca tai biến là gỡ dính ruột, bàng quang, mặt sau tử cung và hố buồng trứng, tuy nhiên 50% cuộc mổ không ghi nhận gặp khó khăn nhưng vẫn có những tai biến nặng nề. Các tai biến về mạch máu, xuất huyết nội được phát hiện sớm trong lúc mổ hoặc trong 24 giờ sau mổ, một số tai biến hệ tiêu hoá và tiết niệu được phát hiện trong tuần lễ đầu sau mổ và các tổn thương hệ niệu đa phần được phát hiện từ tuần lễ thứ hai sau mổ. Kết luận: trong phẫu thuật nội soi, ngoài kinh nghiệm bản thân, chúng ta cần phải được đào tạo thêm khi thực hiện những kỹ thuật mới và huấn luyện những người mới bắt đầu nội soi một cách chuẩn mực. Abstract Objective: to assess and learn from the complications of laparoscopy in gynecology at Tu Du hospital occurring between 2004 and 2006. Methods: a case-series of 28 cases of complications of laparoscopy in gynecology at Tu Du hospital during 3 years (2004-2006). Results: the rate of complications of gynecological laparoscopy is 1,5‰. The rate of death is 5,5/100.000. Major complications were in group of advanced procedures (71,4%), but serious complications also occuring in group of simple procedures. Complication rate in urological system was highest (35,7%) in which fistular urinary bladder and ureter were major. The second highest rate of complication was bowel injury that concentrated on the perforation of small and large bowel. Releasing adhesive bowel, bladder, posterior uterus and fossa ovary were the most frequently problems within the complications. However, severe complications also occuring in 50% cases of unreported problems. We found out all of vascular injuries and internal hemorrhage during the operation procedure or 24 hours postoperation. Some complications of the bowel and the urological system were diagnosed within the first week. Major urological injury used to detect in the second week. Conclusions: In laparoscopy procedure, besides surgeon’s experiences, we should get more training in practicing of the new techniques. In addition, junior surgeon need to be educated with a systematic standard. ĐẶT VẤN ĐỀ: Phẫu thuật nội soi ổ bụng được xem là một trong những tiến bộ quan trọng nhất trong lãnh vực ngoại khoa hai mươi năm trở lại đây. Trong hai năm 2005-2006, Bệnh viện Từ Dũ đã tiến hành mổ phụ khoa cho hơn 13.000 bệnh nhân mỗi năm, trong đó nội soi phẫu thuật được chỉ định ngày càng nhiều, từ 45% trong năm 2005 tăng lên 51% trong năm 2006. Hiện nay bệnh viện Từ Dũ đã trang bị hệ thống 5 phòng mổ nội soi và 1 bộ nội soi di động để có thể mở thêm phòng mổ nội soi khi cần thiết. Bệnh viện cũng đã có khoảng 10 phẫu thuật viên từng được đào tạo ở những trung tâm phẫu thuật nội soi nổi tiếng ở nước ngoài. Bên cạnh đó, 2/3 các bác sĩ trong bệnh viện đều có thể thực hiện các phẫu thuật nội soi chẩn đoán và phẫu thuật nội soi đơn giản, 1/3 các bác sĩ thực hiện được các phẫu thuật nội soi phức tạp và nâng cao. Song song việc “ xóa mù” phẫu thuật nội soi cho các bác sĩ tại bệnh viện, với chức năng đ ào tạo chuyên môn cho các bác sĩ ở tuyến tỉnh , bệnh viện Từ Dũ hàng năm đã tổ chức các lớp huấn luyện nội soi cho cả các tỉnh thành phía Nam và phía Bắc, nhằm giúp cho các bác sĩ ở tuyến tỉnh có thể tiếp cận đ ược với các kỹ thuật cao trong điều trị, và gíup cho người bệnh có thể được hưởng mọi ưu điểm của điều trị bằng nội soi. Tuy nhiên, dù chúng ta có trang bị phương tiện và nhân lực đầy đủ đến đâu đi nữa thì cũng như phẫu thuật mổ hở kinh điển, phẫu thuật nội soi cũng có những nguy cơ xảy ra các tai biến và cần được đánh giá đúng mức. Nguy cơ tai biến được đánh gía dựa trên nhóm phẫu thuật nào được thực hiện, và chúng ta có thể phân loại phẫu thuật nội soi thành bốn nhóm: nhóm 1 là nội soi chẩn đoán, nhóm 2 là nội soi phẫu thuật đơn giản, nhóm 3 là nội soi phẫu thuật phức tạp và nhóm là nội soi phẫu thuật nâng cao [4, 8, 9]. Từ trước đến nay đã có rất nhiều báo cáo đề cập đến những ưu điểm và lợi ích của nội soi, tuy nhiên có rất ít các báo cáo nói về những tai biến ...

Tài liệu được xem nhiều: