Danh mục

Tài liệu tham khảo: Động vật bò sát

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 204.36 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Động vật bò sát Động vật bò sát (danh pháp khoa học: Reptilia) là các động vật bốn chân có màng ối (nghĩa là các phôi thai được bao bọc trong màng ối.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu tham khảo: Động vật bò sátĐộng vật bò sátĐộng vật bò sát (danh pháp khoa học: Reptilia) là các động vật bốn châncó màng ối (nghĩa là các p hôi thai được bao bọc trong màng ố i. Ngàynay, chúng còn lại các đại diện của 4 bộ còn sống sót là: Crocodilia (các loài cá sấu thực sự, cá sấu caiman và cá sấu Mỹ):  23 loài Sphenodontia (các loài tuatara ở N ew Zealand): 2 loài  Squamata (các loài thằn lằn, rắn và amphisbaenia (bò sát giống  bọ)): khoảng 7.900 loài Testudines (các loài rùa, b a ba, vích, đồi mồi v.v): khoảng 300 loài Động vật bò sát được tìm thấy gần như ở mọi nơi trên thế giới, ngoại trừchâu Nam Cực, mặc dù khu vực phân bổ chính của chúng là các vùngnhiệt đới và cận nhiệt đới. Mặc dù tất cả hoạt động trao đổi chất trong cáctế bào sản sinh ra một nguồn năng lượng nhất định, nhưng phần lớn cácloài bò sát ngày nay không sản sinh ra đủ năng lượng để duy trì một thânnhiệt ổn định và vì thế chúng còn được gọi là động vật máu lạnh(ectothermic), ngoại lệ duy nhất là rùa da (Dermochelys coriacea). Thayvì thế, chúng dựa trên việc thu và mất nhiệt từ môi trường để điều chỉnhnhiệt độ bên trong của chúng, chẳng hạn bằng cách di chuyển ra chỗ cóánh nắng hay chỗ có bóng râm, hoặc bằng cách tuần hoàn máu có ưu đãi— chuyển máu nóng vào phần trung tâm của cơ thể, trong khi đẩy máulạnh ra các khu vực ngoại biên. Trong môi trường sinh sống tự nhiên củachúng, phần lớn các loài là rất lão luyện trong công việc này, và chúng cóthể thường xuyên duy trì nhiệt đọ tại các cơ quan trung tâm trong mộtphạm vi dao động nhỏ, khi so sánh với các loài động vật có vú và chim,hai nhóm còn sống sót của động vật máu nóng. Trong khi sự thiếu hụtcơ chế điều chỉnh thân nhiệt bên trong đã làm chúng phải chịu một cái giáđáng kể cho việc này thông qua các hành vi, thì ở mặt khác nó cũng đemlại một số lợi ích đáng kể như cho phép động vật bò sát có thể tồn tại ởnhững khu vực ít thức ăn hơn so với các loài chim và động vật có vú cókích thước tương đương, là những động vật phải dành hầu hết nguồnnăng lượng thu nạp được cho việc giữ ấm cơ thể. Trong khi về cơ bản thìđộng vật máu nóng di chuyển nhanh hơn so với động vật máu lạnh thìnhững loài thằn lằn, cá sấu hay rắn khi tấn công con mồi lại là nhữngđộng vật di chuyển cực nhanh.Ngoại trừ một số ít thành viên trong bộ Rùa (Testudines), thì tất cả cácloài bò sát đều có vảy che phủ.Phần lớn các loài bò sát là động vật đẻ trứng. Tuy nhiên, nhiều loài trongnhóm Squamata lại có khả năng sinh ra con non. Điều này có thể là thôngqua cơ chế đẻ trứng thai (nghĩa là con non phát triển trong vỏ trứng b êntrong cơ thể mẹ trước khi sinh ra), hoặc đẻ con (con non được sinh rakhông cần trứng có vỏ chứa canxi). Nhiều loài đ ẻ con nuôi dưỡng b àothai của chúng thông qua các dạng nhau thai khác nhau, tương tự như ởđộng vật có vú (Pianka & Vitt, 2003, các trang 116-118). Chúng thườngcũng có sự chăm sóc ban đầu đáng kể cho các con non mới sinh.Phân loại bò sátTừ quan điểm của phân loại học cổ điển, bò sát bao gồm tất cả các loàiđộng vật có màng ối còn lại sau khi trừ đi chim và động vật có vú . Vì thếbò sát đ ã được định nghĩa như là một tập hợp các loài động vật bao gồmcá sấu, cá sấu Mỹ, tuatara, thằn lằn, rắn, thằn lằn có gai, rùa, được nhómcùng nhau như là lớp Reptilia (từ tiếng Latinh repere, trườn, bò). Nóvẫn là định nghĩa thông thường của thuật ngữ này.Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều nhà phân loại học đã b ắt đầucho rằng các đơn vị phân loại phải đảm bảo yếu tố đơn ngành, nghĩa làđơn vị phân loại đó phải bao gồm tất cả các hậu duệ từ một dạng cụ thểnào đó. Bò sát theo như đ ịnh nghĩa ở phần trên là một nhóm cận ngành,do nó đã loại ra cả chim và động vật có vú, mặc dù cả hai lớp này cũngđều phát triển và tiến hóa từ bò sát nguyên thủy. Colin Tudge đã viết (bảndịch): Động vật có vú là một nhánh đơn ngành, và vì thế các nhà miêu tả nhánh học là vui mừng khi biết rằng đơn vị phân loại truyền thống Mammalia; và cả chim đều là các nhánh đơn ngành, nói chung được quy cho đơn vị phân loại chính thức Aves. Mammalia và Aves trên thực tế là các phân nhánh trong nhánh lớn của Amniota (động vật có màng ối). Nhưng lớp truyền thống Reptilia lại không phải là một nhánh đơn ngành. Nó chỉ đơn thuần là một đoạn của nhánh Amniota: đoạn này là phần còn lại sau khi đã loại trừ Mammalia và Aves. Nó không thể được định nghĩa theo các đặc trưng được chia sẻ trong nhóm đang nghiên cứu m à không có ở các nhóm ngoài, theo như đúng cách. Thay vì thế, nó được định nghĩa bằng tổ hợp của các đặc trưng mà nó có lẫn với các đặc trưng mà nó không có: Bò sát là động vật có màng ối, không có cả lông mao lẫn lông vũ. Tốt nhất, các nhà miêu tả theo nhánh gợi ý là chúng ta nên nói về lớp Reptilia truyền thống là các động vật có màng ối, không là chim và không là động vật có vú. (Tudg ...

Tài liệu được xem nhiều: