Danh mục

Tản mạn về Thư Pháp

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 179.56 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Xem tranh thư pháp , nhất là với những nét đan thanh, thoát tục, hào sản, hùng vĩ, con người tiêu dao nhàn tản trong thiên nhiên bao la, ta không khỏi nghĩ đến Đạo của Lão tử, và thuyết Vô vi của Trang Tử. Đôi khi, cái không khí trầm mặc của những bức họa cũng không khỏi làm cho ta nghĩ đến cái tinh thần của Thiền đạo. Mặt khác, cái đẹp trang trọng, cổ kính, rất tế nhị, mà cũng rất hoành tráng của chúng, không khỏi chinh phục con mắt thẩm mỹ của ta..Tuy nhiên, sự...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tản mạn về Thư PhápTản mạn về Thư PhápXem tranh thư pháp , nhất là với những nét đan thanh, thoát tục, hàosản, hùng vĩ, con người tiêu dao nhàn tản trong thiên nhiên bao la, takhông khỏi nghĩ đến Đạo của Lão tử, và thuyết Vô vi của Trang Tử.Đôi khi, cái không khí trầm mặc của những bức họa cũng không khỏilàm cho ta nghĩ đến cái tinh thần của Thiền đạo. Mặt khác, cái đẹptrang trọng, cổ kính, rất tế nhị, mà cũng rất hoành tráng của chúng,không khỏi chinh phục con mắt thẩm mỹ của ta.Tuy nhiên, sự cảm thụ thẩm mỹ ấy đôi khi cũng bị giới hạn, vì ta khôngnắm bắt được hết những cái tinh tế của các tác phẩm về mặt nghệ thuật,cũng như về mặt nội dung tư tưởng. Đôi khi, ta tự hỏi, trong cái cõimênh mông ấy, con người, một sinh vật cỏn con, với tầm nhìn giới hạncủa mình, làm sao mà có thể nhìn thấy được hết cả gần, xa, tầng tầnglớp lớp nối tiếp nhau?Thực ra, những điều bí ẩn, tinh tế lớn nhất có lẽ là những tư tưởng triếtlý ở đằng sau chúng. Mà điều này, lại thấy được nói đến trong KinhDịch (còn được gọi là Chu Dịch), một cuốn sách ra đời cách đây đãtrên 2000 năm, và thông thường chỉ được dùng nhiều cho việc bói toán!Dường như trong từng đường nét, bố cục của thư pháp ít nhiều liênquan đến những tư tưởng triết học Phương đông: khí, ý, thần; rồi đếncác quy tắc về hình, tượng, về cách dùng bút, mực và màu sắc; cuốicùng, là quy tắc về cách bố trí sự vật trong không gian.Khái niệm “Ý” cũng là một khái niệm có tính chất triết lý, mà nguồngốc cũng là ở Kinh Dịch. Thư Pháp, thực chất là một sự theo đuổi siêuhình, chứ không phải là một sự mô phỏng hay tái hiện giản đơn sự vậtbên ngoài. Nhà thư Pháp không chỉ thể hiện hình tượng của sự vật, màchủ yếu là cái hàm ẩn trong hình tượng, khiến cho hình tượng tràn đầysức sống. Thể hiện sự biến hóa chưa đủ, mà còn phải thể hiện được cảcái tâm linh và sinh mệnh của chữ.Nhịp điệu trong ngôn ngữ nghệ thuật phương Tây, mặc dầu chỉ giớihạn ở một nội dung cụ thể, là thể hiện cái cấu trúc và cái bản chất củasự vật, nói lên sự sống của nó, hoặc cái động cơ, cái hàm ý chứa ẩntrong nó, tuy cũng gần với hai khái niệm khí và thần, song, trong khikhái niệm nhịp điệu có gốc rễ từ sự quan sát và nhận thức khoa học, thìcác khái niệm khí, ý và thần lại có một nội dung triết lý cao siêu, mặcdầu vẫn xuất phát từ con người và lấy sinh mệnh con người làm gốc.Có thể nói rằng, phần lớn những quy tắc kể trên của thư pháp có gốc rễtừ những tư tưởng triết học cổ đại, từ quan niệm về Đạo, về vũ trụ, vềâm - dương, về sự đối lập hài hòa của sự vật và của các cặp phạm trùnhư cương nhu, sáng tối..., về sinh mệnh của vũ trụ và con người.Những tư tưởng triết lý này, cùng với một số tư tưởng về nghệ thuật vàvề văn học đã được ghi lại ở trong Kinh Dịch.Xuất hiện vào nửa đầu thời Chiến quốc (476-221 tr.C.N.) và được tiếptục vào các thời Tần-Hán (thế kỷ III tr.C.N.), Kinh Dịch là một tácphẩm của nhiều tác giả. Tư tưởng trong Kinh Dịch dung hoà cả tưtưởng của Khổng tử, Lão tử và Âm dương gia, và thường được dùngtrong việc bói toán. Tuy nhiên, nó có cái độc đáo là đã triển khai nhiềutư tưởng triết học có trước nó, hoặc của chính nó, liên quan đến nghệthuật và văn chương.Những tư tưởng trong Kinh Dịch, tư tưởng về sựđối lập hài hoà của sự vật, về thuyết âm dương, nên chăng dựa trênquan điểm mỹ học phát triển ngày một cụ thể và phong phú thêm:1. Mọi sự vật trong thiên hạ, tất cả đều không ngoài âm, dương. Lấyánh sáng mà bàn: sáng là dương, tối là âm; lấy ngôi nhà mà bàn, bênngoài là dương, bên trong là âm; lấy vật thể mà bàn, cao là dương, thấplà âm; lấy đắp vun mà bàn, chỗ nhô lên là dương, chỗ thụt xuống làâm... Vì có âm, có dương, nên nét bút có hư, có thực.2. Viết thư pháp, quan trọng nhất là phải biểu đạt được tính tình củachữ, vẽ được tính tình của nó, thì vẽ được cái thế nhấp nhô ôm bọc,như nhảy như ngồi, như cúi ngẩng, như buộc chân, tự nhiên tình củachữ là tình của ta, mà hạ bút không đuối. Cũng vẽ được cái thế sóngtrào cuồn cuộn, như hoa văn như kỳ lân, như mây cuốn, như nộ dâng,như mặt quỷ, tự nhiên tình sông nước là tình ta, mà hạ bút không cứngnhắc.3. Chữ có phản có chính, có nghiêng có lệch, có tụ có tán, có gần có xa,có trong có ngoài, có hư có thực, có đứt có liền, có tầng lớp, có phongtrí, có phiêu diêu, đấy là nét lớn của cuộc sống. Nếu không như thế,làm sao khiến cho dưới ngòi bút lại có thai có cốt, có khai có hợp, cóthể có dụng, có hình có thể, có củng có lập, có quỳ có nhảy, có xunglên mây, có thế bàng bạc, có cheo leo, có gập ghềnh, có hiểm có yếu...tất cả đều linh thiêng và đủ thần dị.Xem như vậy, không gian trong các bức thư pháp không phải chỉ làkhông gian thị giác, mà là không gian hư cấu, trong đó vai trò của bốcục chiếm một địa vị quan trọng, dựa trên một nền phông tư tưởng triếtlý và mỹ học của Kinh Dịch về vũ trụ và con người, về sinh mệnh,nhằm thể hiện sức sống dồi dào của trời đất muôn vật và loài người,trên cơ sở tình và vật giao hoà lẫn nhau, con người và thiên ...

Tài liệu được xem nhiều: