Danh mục

Tân thư và phong trào Duy tân ở Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam thời kì cận đại_2

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 184.86 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Lịch sử phát triển của một số quốc gia châu Á thời kỳ cận đại (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX) ghi nhận một hiện tượng khá phổ biến, đó là sự xâm nhập, ảnh hưởng của các tư tưởng tự do, dân chủ, dân quyền từ các nước châu Âu và phương Tây vào quá trình vận động
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tân thư và phong trào Duy tân ở Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam thời kì cận đại_2 Tân thư và phong trào Duy tânở Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam thời kì cận đại Lịch sử phát triển của một số quốc gia châu Á thời kỳ cận đại (cuối thế kỷ XIX, đầuthế kỷ XX) ghi nhận một hiện tượng khá phổ biến, đó là sự xâm nhập, ảnh hưởng của cáctư tưởng tự do, dân chủ, dân quyền từ các nước châu Âu và phương Tây vào quá trình vậnđộng, biến chuyển của lịch sử xã hội cũng như lịch sử tư tưởng-chính trị và học thuật củacác nước phương Đông, trong đó có Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Dấu hiệu rõnhất cho thấy quá trình chuyển mình lịch sử này là phong trào Duy tân diễn ra gần nhưcùng một thời điểm ở hàng loạt quốc gia Đông và Đông Nam châu Á, trong đó, Tânthư có một vai trò hết sức quan trọng. Nhật Bản là quốc gia đi đầu và đến đích sớm trong phong trào Duy tân. Từ 1868, vuaMinh Trị đã tiến hành hàng loạt các cuộc cải cách dựa trên ý chí Nhật Bản cộng với môhình xã hội và thiết chế chính trị phương Tây. Trong cuộc cách mạng này, ngoài con đườngtrực tiếp đưa người đi học tập, đào tạo ở nước ngoài, hoặc mời chuyên gia nước ngoài vàogiảng tại các trường đại học ở trong nước, thì Tân thư là nhịp cầu tư tưởng quan trọng kếtnối người Nhật với người phương Tây. Nhờ đó mà người Nhật sớm thoát khỏi ảnh hưởngtư tưởng chính trị và học thuật Trung Hoa, khi ấy đã trở thành lạc hậu, bảo thủ, kìm hãm sựphát triển của lịch sử; đồng thời, đó cũng là phương tiện quan trọng nhất để người Nhật tiếpcận và tiếp thu một cách có bài bản, hệ thống không chỉ các tri thức, các thành tựu về khoahọc kỹ thuật, mà còn cả những tư tưởng mới về tự do, dân chủ, dân quyền; về các thiết chếxã hội từ các nhà tư tưởng – triết học châu Âu như R. Descartes, Voltairre, J. Rousseau,Motesquieu… Được sự ủng hộ của tầng lớp Samurai là tầng lớp tư sản đang lên, Thiênhoàng – Minh Trị và các nhà Duy tân Nhật Bản nhanh chóng đưa nước Nhật trở thành mộtquốc gia hùng cường ở châu Á có tiềm lực trí tuệ và tiềm lực vật chất kỹ thuật để đuổi kịpvà vượt các nước Âu-Mỹ chỉ trong vòng trên dưới 30 năm. Những tài liệu được coi là Tânthư ở Nhật Bản thời kỳ này là những sách báo có xuất xứ từ Âu - Mỹ, bao gồm cả sáchkhoa học kỹ thuật lẫn sách khoa học xã hội, văn hóa và văn học. Tính đến năm 1887 đã có633 cuốn về triết học, chính trị kinh tế học, lịch sử văn hóa học và 120 cuốn về văn học(tính đến 1890) được dịch và giới thiệu chủ yếu từ tiếng Anh và tiếng Pháp(1). Những tríthức lỗi lạc của Nhật Bản đương thời như Fukazawa Yukichi, Kato, Taguchi… đã góp phầnquan trọng vào việc mở rộng tầm mắt, mở mang tri thức cho người Nhật thông qua hoạtđộng dịch thuật và biên khảo. Cùng với những chuyển biến mau lẹ trong nhận thức tư tưởng và trong tư duy họcthuật, Tân thư còn làm thay đổi đáng kể ngôn ngữ văn chương, đặc trưng thể loại và hệthống khái niệm, thuật ngữ khoa học của người Nhật. Chữ Hán và chữ Kana vốn có vị trírất quan trọng và tồn tại rất lâu dài trong đời sống văn hóa Nhật Bản cũng từng bước đượccải biến, phát triển để chuyển tải những tư duy mới, diễn đạt những tư tưởng mới đangxuất hiện và phát triển trong đời sống văn hóa, khoa học của đất nước. Nghiên cứu, lý giải hơn 100 năm phát triển của đất nước Nhật Bản kể từ Thiênhoàng – Minh Trị (1868) đến nay, không thể phủ nhận được ảnh hưởng mọi mặt từ cácnước Âu – Mỹ, trong đó, Tân thư đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc khai mở tinhthần, kích thích ý chí cải cách, duy tân, đưa Nhật Bản sớm đạt được vị thế mong muốntrong khu vực và trên thế giới. Ở Trung Quốc, chiến tranh nha phiến năm 1840 được coi là mốc mở đầu thời kỳCận đại và kết thúc bằng cuộc vận động Ngũ Tứ (1919). Trong thời gian gần 80 năm này,Trung Quốc vừa phải đối mặt với các thế lực tư bản ngoại bang, vừa phải đối mặt với thểchế chính trị phong kiến nhà Thanh đang trên đà suy thoái, phản động, cản trở bước tiếncủa lịch sử. Sau chiến tranh nha phiến là cuộc cách mạng nông dân Thái bình thiên quốc(1851-1864); là chiến tranh Trung – Pháp (1884-1885); chiến tranh Trung – Nhật (1885-1995); là Mậu Tuất chính biến (1898); là Nghĩa Hòa Đoàn (1900); là Cách mạng Tân Hợi(1911) và phong trào Ngũ Tứ (1919). Tất cả các sự kiện đó, hoặc ít hoặc nhiều đều chịusự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp từ quá trình tiếp xúc, đụng độ với phương Tây trên cácphương diện: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, khoa học và tư tưởng. Nếunhư về kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao, sự thất bại liên tiếp của Trung Quốc trướccác thế lực ngoại bang là một bài học lịch sử đánh thức lòng tự trọng dân tộc của ngườiTrung Quốc, thì về mặt văn hóa, khoa học và tư tưởng, quá trình tiếp xúc với phương Tâylại mang đến cho Trung Quốc một làn gió mới, một luồng sinh khí mới, một vận hội lịchsử mới để cải cách và duy tân. Tương tự như ở Nhật Bản, trong quá trình vận động cải cách và duy tân, Tânthư đóng một vai trò quan trọng. Đến lúc này, các nhà duy tân Trung Quốc không cầnphải tìm đâu xa, chỉ cần hướng sang nước láng giềng Nhật Bản, vốn là một nước nhỏ,từng nằm trong vòng cương tỏa của tư tưởng học thuật và văn hóa Trung Hoa, đã có thểcảm nhận được những gì cần cho đất nước mình. Trừ số ít những người được học ở nướcngoài, biết ngoại ngữ như Nghiêm Phục (1853-1921), học ở Anh về, tự dịch cuốn Thiêndiễn luận của Hussley để giới thiệu thuyết tiến hóa, hay Vương Quốc Duy (1877-1927)biên soạn những công trình nghiên cứu, khảo cứu về triết học của Kant, Shopenhauer…còn phần lớn các nhà cải cách và duy tân Trung Quốc như: Củng Tự Trân (1792-1841),Ngụy Nguyên (1794-1856), Phùng Quế Phân (1809-1874), Vương Thao (1827-1879),Khang Hữu Vi (1858-1927), Lương Khải Siêu (1873-1929), Đàm Tự Đồng (1865-1898),Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, Hoàng Tôn Hiến, Tôn Trung Sơn, v.v… đều tiếp xúc và tiếpthu tư tưởng duy tân qua Tân thư chủ yếu là những sách bằng chữ Hán được phổ biến ởNhật Bản. Thấm nhuần những tư tưởng từ Tân th ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: